Đó là bản Tẩu Pung thuộc xã Nà Tấu (Ná Táu) ở phía đông bắc
huyện, và hồ U Va thuộc xã Noong Luống ở phía tây nam huyện. “Tẩu Pung” là
một loại quả bầu to, có dây leo. Từ quả bầu đó, các giống người “chui” ra.
Bản Tẩu Pung hiện nay còn một quả núi hơi giống quả bầu. Còn hồ U Va ở sát
ngay Pá Nặm, nơi sông Rốm và sông Núa gặp nhau. Ngày xửa ngày xưa, từ hồ này
có dây khau cát (dây sắn rừng) dùng làm đường lên xuống giữa cõi trời và cõi
người.
Cứ theo “Truyện kể bản mường” của người Thái thì con người
không phải là do “Chúa trời lấy bụi đất mà nặn ra”. Con người được Trời
(Then) cử người xuống trần gian để dựng bản lập mường. Xuống trần, con người
phải trải qua “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” rồi mới đứng vững trên mặt
đất mà sinh sôi nảy nở. Lần thứ nhất xuống trần, con người còn dại lắm, sống
“trần truồng như bầy thú, hỗn độn không cùng giống, vạn người không cùng
bản”. Then phải gọi họ về trời. Lần thứ hai, lớp người khác xuống đã khá
hơn, nhưng vì người già người lột, “sống lâu mãi phát chán vì không được về
trời”, bèn làm nhiều việc trái ý Then. Then phát cáu, gây ra đại hồng thuỷ
(tạm dùng chữ của Sáng thế ký) . Đến đây, xin phép nói vào một ý, là con
người ta thuở xưa, bất cứ ở dưới gầm trời nào, vào lúc ý nghĩ còn thơ ngây,
thường có những suy ngẫm chẳng ai bảo ai mà rất giống nhau về nguồn gốc của
mình, về sự hình thành đồn đất, núi sông. Sự suy ngẫm rất thơ ngây và cũng
rất nên thơ ấy xét ra cũng bắt nguồn từ thực tế: “đại hồng thuỷ” chẳng qua
là những trận mưa thái cổ, những đọt biển ra biển vào kéo dài hàng trăm
triệu năm; “trần truồng như bầy thú” chẳng qua là con người mới thoát ra
khỏi số phận loài vượn, tuy đã thành người nhưng còn hoang sơ lắm.
Theo truyền thuyết, đất Mường Thanh đã từng là bối cảnh của
một tấn bi kịch mà Lạn Chượng là một nhân vật chính. Câu truyện bắt đầu từ ở
Mường Muổi. Nguyên ở đây có chúa Ăm Poi, cũng là một chiến tướng vô địch.
Lạn Chượng đánh mãi không thắng nổi. Ăm Poi là người La Ha (mà người Thái
gọi là xả khao: xá trắng).
Không thắng nổi ăm Poi, Lạn Chượng lập mưu xin lấy con gái Ăm
Poi, là nàng Ho Quảng, làm vợ. Ăm Poi nhận lời. Sau khi gả con gái mình cho
Lạn Chượng, Ăm Poi lên Mường Thanh, vợ chồng Lạn Chượng cũng theo lên. Lạn
Chượng lập dinh luỹ ở quả đồi nay gọi là A1, lại có nhà ở đầu suối Nặm Pe.
Một hôm, Ăm Poi về qua một bãi lau rậm, bị Lạn Chượng cho phục binh giết
chết (có truyền thuyết nói Lạn Chượng giết bố vợ ngay ở Mường Muổi). Được
tin bố bị giết, nàng Ho Quảng rất đau khổ, quyết tìm cho ra thủ phạm. Sau đó
ít lâu, con trai út của Lạn Chượng không ốm đau gì mà lăn ra chết. Cho là
trời báo oán, đêm khuya, Lạn Chượng khóc con:
Ngựa khoẻ chạy trước trâu
Con trai chết trước bố
Làm ác với họ ngoại thật không hay
Giết chủ bản mường, thật không tốt
ối con ơi!
Lạn Chượng tưởng vợ đã ngủ say, không nghe tiếng khóc. Chẳng
ngờ nàng Ho Quảng vẫn thức, và thế là nàng đã biết một sự thật khủng khiếp:
Kẻ giết cha mình lại chính là chồng mình. Từ đó nàng không ở cùng dinh luỹ
với Lạn Chượng nữa mà xin đóng quân riêng (vì nàng cũng là một chiến tướng).
Ho Quảng đóng quân ở đồi Pom Loi (nay là đồi Cháy). Giữa đồi Lạn Chượng và
đồi Pom Loi có bắc một cái cầu cạn để chồng đi thăm vợ. Một hôm Lạn Chượng
cưỡi ngựa qua cầu sang, bỗng bị một mũi tên từ Pom Loi bay vút tới, cắm
trúng tim. Nàng Ho Quảng đã trả thù cho bố. Vì chút tình chồng nghĩa vợ, Ho
Quảng làm lễ tang cho Lạn Chượng ở đồi Pom Loi (đồi Lễ Tang) và chôn xác Lạn
Chượng ở đồi Pom Ca (đồi Sa Nhân). Pom Ca là đồi F.
K.D (st)