Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Ngày thương binh liệt sỹ Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng Báo chí Cách Mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng Báo chí Cách Mạng Việt Nam
Phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ: Không dễ
Thứ tư: 10:12 ngày 10/11/2010

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - Theo số liệu của Công an Tây Ninh, trong 5 năm gần đây (từ 2005 đến tháng 7.2010), trên địa bàn tỉnh có tới 179 nạn nhân bị mua bán là phụ nữ và trẻ em, trong đó có 97 phụ nữ trong tỉnh, số còn lại là trẻ em.

Theo số liệu của Công an Tây Ninh, trong 5 năm gần đây (từ 2005 đến tháng 7.2010), trên địa bàn tỉnh có tới 179 nạn nhân bị mua bán là phụ nữ và trẻ em, trong đó có 97 phụ nữ trong tỉnh (đa số là những phụ nữ trẻ dưới 30 tuổi), số còn lại là trẻ em (có cả 7 trẻ em người Trung Quốc) thông qua các hình thức, thủ đoạn như: môi giới kết hôn với người nước ngoài, đi lao động làm thuê, đi du lịch… Để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (BBPNTE), căn cứ Quyết định 130/2004/QĐ-TTg ngày 17.4.2004 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 78/QĐ-CT ngày 28.4.2005 về Chương trình hành động phòng, chống tội phạm BBPNTE từ năm 2005 đến năm 2010 và Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 29.3.2006 phê duyệt Kế hoạch thực hiện các Đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống mua bán PNTE từ năm 2005 đến năm 2010. Qua giám sát mới đây của Ban Văn hoá – Xã hội HĐND tỉnh cho thấy, việc thực hiện các Đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội phạm BBPNTE đã đạt được một số kết quả đáng kể.

Nhiều ngành cùng lo...

Ông Cao Duy Thắng, PCT-UBND huyện Hoà Thành báo cáo tình hình PCBBPNTE tại địa phương

Đối với Đề án Tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng về phòng, chống tội phạm BBPNTE do Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh chủ trì, trung bình mỗi năm thực hiện được khoảng 1.200 cuộc tuyên truyền với khoảng 20.000 người tham dự, cấp phát 1.000 tờ rơi tuyên truyền kiến thức phòng, chống tội phạm, thông qua hoạt động của các câu lạc bộ được thành lập trên địa bàn xã; tổ chức hội thi tìm hiểu về phòng, chống tội phạm BBPNTE; sinh hoạt tổ tự quản... Hội LHPN chú trọng tuyên truyền cho các đối tượng có nguy cơ cao, phụ nữ vùng nông thôn, biên giới, các đối tượng có danh sách theo dõi (nạn nhân, tội phạm mua bán)… Đối với Đề án Đấu tranh chống tội phạm BBPNTE do Công an tỉnh và Bộ đội Biên phòng tỉnh chủ trì thực hiện, từ năm 2005 đến tháng 7.2010 đã phát hiện, đấu tranh, bắt giữ 39 vụ 101 đối tượng, giải cứu 179 nạn nhân. Việc thực hiện công tác đấu tranh chủ yếu do Công an tỉnh thực hiện, công an các huyện, thị tích cực đẩy mạnh tuyên truyền nhằm phòng ngừa tội phạm và lập danh sách đối tượng có nguy cơ cao để theo dõi, quản lý (đã lập danh sách quản lý được 115 đối tượng là phụ nữ thường xuyên qua buôn bán ở Campuchia và phục vụ tại các casino; 131 nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài chưa trở về; 38 PNTE vắng mặt tại địa phương và nghi bị buôn bán…).

Đối với Đề án Tiếp nhận và hỗ trợ những PNTE là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về do Sở Lao động -Thương binh & Xã hội chủ trì thực hiện, đến tháng 7.2010, Sở LĐ-TB&XH đã tiếp nhận 58 phụ nữ, 3 trẻ em (người Trung Quốc) là nạn nhân, thực hiện hỗ trợ được 92 nạn nhân (hỗ trợ ban đầu, hỗ trợ hoà nhập cộng đồng). Công tác hỗ trợ chỉ thực hiện được khi nạn nhân được các cơ quan chuyên môn tiếp nhận. Đối với nạn nhân tự trở về không qua tiếp nhận (35 người), các địa phương không xác định được do hầu hết nạn nhân không khai báo nên không có cơ sở để hỗ trợ. Công tác hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng được các địa phương lồng ghép với các chính sách khác theo quy định như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn, học nghề, giới thiệu việc làm... Một số trường hợp nạn nhân tại huyện Tân Biên được hỗ trợ vay vốn từ nguồn vốn xoay vòng của hội viên Hội Phụ nữ với mỗi trường hợp là 4 triệu đồng, lãi suất 1%/tháng, còn lại đa số được hỗ trợ không hoàn vốn từ kinh phí của tỉnh và các dự án phi chính phủ.

Về vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài trên địa bàn tỉnh, theo thống kê của Sở Tư pháp, trong 5 năm qua có 2.195 trường hợp đăng ký kết hôn với người nước ngoài (trong đó kết hôn với người Trung Quốc chiếm 50,97%) và 534 trường hợp ghi chú kết hôn, trong đó hầu hết (530 trường hợp) ghi chú kết hôn với người Hàn Quốc. Công tác phối hợp giữa các ngành trong quản lý Nhà nước đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài được thực hiện tương đối chặt chẽ, từ chối công nhận kết hôn 106 trường hợp do vi phạm thuần phong mỹ tục, ngôn ngữ bất đồng, thời gian tìm hiểu ngắn, trong đó 18 trường hợp từ chối do kết hôn thông qua môi giới. Để có cơ sở xác minh và công nhận kết hôn hợp pháp, các ngành chức năng ngoài việc phỏng vấn đối tượng kết hôn còn phỏng vấn cả người môi giới (người giới thiệu kết hôn với người nước ngoài).

Từ tình hình trên cho thấy, việc triển khai thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm BBPNTE đã tạo điều kiện cho chính quyền địa phương và toàn xã hội đặc biệt quan tâm đến vấn đề tội phạm mua bán người, từ đó tích cực tố giác, điều tra, xử lý tội phạm góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Một số địa phương tích cực tuyên truyền với nhiều hình thức đã góp phần trang bị kiến thức, nâng cao hiểu biết để người dân có ý thức phòng, chống và có trách nhiệm hơn trong việc phát hiện, tố giác, ngăn chặn tội phạm BBPNTE, hạn chế bị lừa gạt buôn bán. Tạo việc làm tại chỗ, tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm cho chị em phụ nữ được coi là những giải pháp tích cực trong công tác phòng, chống, được các ngành, các cấp chú trọng thông qua việc thực hiện các mục tiêu đảm bảo việc làm, xoá đói - giảm nghèo, tăng cường đào tạo nghề và khả năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế cho phụ nữ.

Nhưng... phối hợp chưa chặt

Tuy vậy, công tác phòng chống tội phạm BBPNTE, cũng như công tác quản lý Nhà nước đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể: Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa chặt chẽ, Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình chưa thường xuyên củng cố, chưa tổ chức sơ, tổng kết kịp thời để chỉ đạo các ngành giải quyết những vướng mắc xảy ra trong quá trình thực hiện, vì vậy mọi vấn đề thường giao phó cho các ngành chức năng chủ trì đề án thực hiện (Công an, Hội Phụ nữ, Sở LĐ-TB&XH…). Công tác tuyên truyền hiện nay cũng chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, chưa tiếp cận được các đối tượng có nguy cơ cao, đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác viên còn thiếu và yếu, chưa tập trung được nguồn lực để thực hiện công tác đạt hiệu quả cao, ở nhiều nơi công tác này còn mang tính phong trào, hình thức… Việc điều tra, rà soát, lập danh sách các đối tượng môi giới lấy chồng nước ngoài, các tụ điểm có biểu hiện hoạt động mại dâm, các đường dây tổ chức mua bán phụ nữ, trẻ em chưa được chủ động thực hiện. Việc đấu tranh chống tội phạm BBPNTE chỉ thực hiện sau khi được người dân tố giác, công tác phối hợp điều tra, truy bắt đối tượng và giải cứu nạn nhân ở nước ngoài còn nhiều khó khăn. Thủ tục xác minh, tiếp nhận nạn nhân theo trình tự quy định mất nhiều thời gian. Công tác hỗ trợ cho nạn nhân có nơi hỗ trợ nhiều, có nơi các ngành, đoàn thể chưa mạnh dạn cho các nạn nhân vay vốn vì lo ngại khả năng hoàn vốn, do vậy đời sống của đa số nạn nhân vẫn còn rất khó khăn. Chế độ chi hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về mặc dù có tăng nhưng vẫn còn thấp, số nạn nhân bị mua bán tự trở về nhận được hỗ trợ còn ít, do mặc cảm lo sợ ảnh hưởng đến cuộc sống nên đa số đối tượng không khai báo với chính quyền địa phương để nhận hỗ trợ. Trong số những nạn nhân trở về, sau khi nhận được hỗ trợ, có người có cuộc sống ổn định tại địa phương, có người bỏ địa phương đi… Đáng lo ngại là có cả một số người lại trở thành tội phạm BBPNTE.

Một nhóm phụ nữ bị lừa đưa ra nước ngoài được công an ngăn chặn kịp thời khi đang chờ làm thủ tục tại sân bay

Về việc quản lý Nhà nước đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa có sự phối hợp thường xuyên giữa các ngành, không có phiên dịch để kiểm tra khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung của các đối tượng kết hôn theo quy định; đa số đối tượng kết hôn thường làm thủ tục ghi chú kết hôn, không làm thủ tục kết hôn tại Việt Nam do mất nhiều thời gian. Người dân ý thức được việc kết hôn với người nước ngoài không xuất phát từ tình yêu chân chính, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân bị buôn bán, nhưng do sự nghèo túng, thất học, thiếu việc làm… và sự kỳ vọng thay đổi cuộc sống cho bản thân và gia đình nên những đối tượng này đã trở thành mục tiêu của bọn tội phạm. Vì vậy, tội phạm lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để mua bán, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục đối với phụ nữ còn diễn ra ở nhiều nơi. Hành vi “tuyển mộ” phụ nữ để kết hôn với người nước ngoài diễn ra phổ biến không chỉ tại Tây Ninh mà trên phạm vi cả nước, nhưng chưa có hình thức xử lý thích đáng. Trước đây, theo Nghị định 150/2005/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, hành vi “Môi giới, dẫn dắt, tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự” chỉ bị phạt từ 1 triệu đến 2 triệu đồng, nên không đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Hiện nay, đã có Nghị định 73/2010/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội (thay thế cho Nghị định 150/2005/NĐ-CP), nhưng mức xử phạt đối với hành vi “Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự” vẫn… không thay đổi.

Những kiến nghị đáng lưu ý

Trước tình hình đó, Ban Văn hoá – Xã hội HĐND tỉnh Tây Ninh đã có văn bản đề nghị Chính phủ, UBND tỉnh và một số sở, ngành, huyện, thị xã quan tâm thực hiện một số vấn đề như: Xem xét tăng mức xử phạt đối với hành vi Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự” theo quy định tại Nghị định 73/2010/NĐ-CP để khắc phục tình trạng kết hôn với người nước ngoài không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; tinh giản thủ tục tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về để tạo điều kiện cho các ngành tại địa phương dễ thực hiện và nạn nhân sớm được đoàn tụ với gia đình; Tăng mức hỗ trợ cho phụ nữ trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về tái hoà nhập cộng đồng, bổ sung mức chi hỗ trợ cho nạn nhân được giải cứu trong nước (chưa bị bán ra nước ngoài); xem xét việc thành lập tổ chức môi giới kết hôn tại Việt Nam để liên kết với các tổ chức môi giới kết hôn ở nước ngoài, nhằm thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài, hạn chế tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp; phối hợp, lồng ghép tốt hơn công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm; nắm bắt thông tin, tình hình nhóm có nguy cơ cao chặt chẽ, thường xuyên; xác minh, làm rõ tình trạng các nạn nhân bị buôn bán trở về nay bỏ địa phương đi; ưu tiên đầu tư nguồn vốn giải quyết việc làm cho các nạn nhân, tạo điều kiện tái hoà nhập cộng đồng để họ có cuộc sống ổn định… Thực hiện tốt công tác điều tra, rà soát nắm địa bàn nhằm phát hiện, ngăn chặn, triệt phá các đường dây tội phạm, quản lý chặt chẽ nhân khẩu trên địa bàn xã, phường, thị trấn; Thực hiện xét xử lưu động các vụ án buôn bán phụ nữ trẻ em để tuyên truyền cho người dân cảnh giác về hành vi của bọn tội phạm; Tăng cường thực hiện công tác thanh kiểm tra và xử phạt các hành vi vi phạm về đăng ký kết hôn theo quy định tại Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23.7.2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.

NM

 

 

 

Từ khóa:
Tin cùng chuyên mục