BAOTAYNINH.VN trên Google News

Quyền của chủ hộ quy định trong Luật Cư trú mới 

Cập nhật ngày: 30/09/2021 - 09:30

BTNO - Luật Cư trú năm 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 1.7.2021. Theo quy định, mỗi hộ gia đình cử một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ làm chủ hộ để hướng dẫn các thành viên trong hộ thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Người dân cần biết và hiểu rõ các quy định mới liên quan đến quyền của chủ hộ để thực hiện đúng pháp luật.

Người dân cần hiểu rõ các quy định mới liên quan đến quyền của chủ hộ để thực hiện đúng pháp luật (ảnh minh hoạ)

Khái niệm chủ hộ khẩu đã không còn tồn tại trong Luật Cư trú năm 2020, mà thay bằng chủ hộ. Theo Luật Cư trú năm 2020, chủ hộ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ do các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp hộ gia đình không có người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì chủ hộ là người được các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp các thành viên hộ gia đình không đề cử được thì chủ hộ là thành viên hộ gia đình do Toà án quyết định; trường hợp hộ gia đình chỉ có một người thì người đó là chủ hộ.

Chủ hộ có quyền và nghĩa vụ thực hiện, tạo điều kiện, hướng dẫn thành viên hộ gia đình thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú và những nội dung khác theo quy định của Luật này; thông báo với cơ quan đăng ký cư trú về việc trong hộ gia đình có thành viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 29 của Luật này.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú năm 2020, công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý. Như vậy, một người muốn nhập khẩu theo trường hợp về ở với người thân, thuê mượn, ở nhờ… cần có sự đồng ý của chủ hộ mới được nhập khẩu.

Luật Cư trú mới có nhiều nội dung quan trọng liên quan đến chủ hộ. Ảnh minh hoạ

Đối với việc tách hộ, điểm b khoản 1 Điều 25 quy định rõ, nếu thành viên hộ gia đình muốn tách hộ để đăng ký thường trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp khác cần có sự đồng ý của chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp, trừ trường hợp thành viên hộ gia đình đăng ký tách hộ là vợ, chồng đã ly hôn mà vẫn được cùng sử dụng chỗ ở hợp pháp đó. 

Việc thông báo với cơ quan đăng ký cư trú về việc trong hộ gia đình có thành viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 24 (xoá thường trú), khoản 1 Điều 29 (tạm trú) là trách nhiệm của chủ hộ theo Điều 10 Luật Cư trú năm 2020.

Phương Thảo