Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Mỗi cái bàu đều có đặc điểm riêng, dân làm cá đều rất quen thuộc và gọi tên như vậy. Các bàu này đều có cửa ăn thông ra suối, nên có rất nhiều loại cá sinh sống. Mùa mưa đi soi cá chạy nước ngược ở đây nhiều vô kể và cũng vô cùng lý thú.
Năm xưa, khi hồ Dầu Tiếng chưa tích nước, dòng Tha La chỉ là một con suối nhỏ, bề ngang chừng năm bảy thước, nước chảy rất xiết. Cặp theo bờ suối này có sáu cái bàu khá lớn là bàu Tròn, bàu Dài, bàu Cây Trâm, bàu Le Le, bàu Lùn và bàu Tư Ðặng.
Mỗi cái bàu đều có đặc điểm riêng, dân làm cá đều rất quen thuộc và gọi tên như vậy. Các bàu này đều có cửa ăn thông ra suối, nên có rất nhiều loại cá sinh sống. Mùa mưa đi soi cá chạy nước ngược ở đây nhiều vô kể và cũng vô cùng lý thú.
Nói đến bàu là nói đến khu đất trũng ngập nước ngoài đồng hay ven bờ sông suối. Ða phần bàu là thiên nhiên tự có, nhưng cũng có những cái bàu do bàn tay con người tạo nên. Vùng đất quanh Tha La có rất nhiều hố bom gần bờ suối, lâu ngày bị nước suối tràn vô, lá tre gai úng mục, rễ cây rừng phá lở bờ thành ra những cái bàu.
Tôi còn nhớ rất rõ, những cái bàu này quanh năm tối. Xung quanh bàu là những cây rừng to và bạt ngàn tre gai. Lá tre gai rụng xuống, lớp chìm, lớp nổi lờ đờ trên mặt nước, làm cho mặt bàu như một thuỷ cung huyền bí vậy. Sở dĩ người ta gọi là bàu Cây Trâm vì giữa bàu nổi lên một ụ đất, trên đó mọc một cây trâm cổ thụ, đến mùa trái chín đen cả tàn cây.
Bàu Dài, bàu Tròn là gọi theo hình dáng của nó. Bàu Le Le là nơi trú ngụ của giống chim le le, nơi đây sáng sớm le le lội đen nước, xong bay đi kiếm ăn, chiều bay về từng đàn trong ánh hoàng hôn tuyệt đẹp. Còn bàu Lùn là nơi mọc toàn loại cây cỏ lùn. Ðối diện bàu Lùn là đất rẫy của ông Tư Ðặng, gần đó có cái bàu, nên người dân quen gọi đó là bàu Tư Ðặng.
Thuở ấy, dân quanh vùng này còn đánh bắt cá kiểu thô sơ như câu cắm, câu giăng, đánh lưới… nên lượng cá còn trong tự nhiên rất phong phú. Nước trong bàu vốn là nước đứng, nước tù, nhưng cá sống trong bàu thì đủ loại. Nhiều nhất phải kể đến cá lóc, cá trê, cá rô và lươn. Những loại này sống “thâm niên” và sinh sôi nảy nở trong các bàu nhiều vô kể…
Xưa kia, nước chưa ngập, ven các bàu này là rẫy của bà con khai phá trồng lúa nếp, khoai mì và đậu phộng. Mùa mưa đến, sau những cơn mưa lớn, nước trên các đám rẫy chảy xuống bàu rất nhiều. Những chỗ nước chảy khuyết lâu ngày trở thành rãnh nước lớn. Cá dưới bàu đa phần là cá đen, sau mưa nghe tiếng nước chảy là theo hướng nước mà bơi ngược lên.
Cá lóc, trê, rô đồng vượt lên khỏi bờ bàu rồi lóc lên theo các đường nước chảy. Dân làm cá chúng tôi cứ sau mỗi cơn mưa lớn là men theo các rãnh này mà rình chụp cá, cá bắt được rất nhiều và cũng được cả niềm vui…
Mới đầu chỉ vô tư mà bắt như vậy, nhưng sau bọn trẻ chúng tôi bắt đầu nghĩ ra cách đào hố bẫy cá. Ðầu tiên là chặt tre gai đóng ngang các rãnh nước, sau đó đào một cái hố tròn như cái lu sát bên bờ rãnh, vét miệng hố cho thật láng.
Khi trời mưa nước đổ xuống, cá dưới bàu sẽ đi lên, gặp rào tre ngăn lại sẽ tìm hướng khác vượt lên, tất sẽ chui tọt xuống hố. Sau mỗi cơn mưa, chỉ cần đi thăm các hố bẫy là bắt đủ loại cá, thật là sướng tay.
Tôi còn nhớ một buổi chiều mùa mưa, tôi và cha tôi cắm câu xong, ngồi trên bờ cái bàu Tròn, nhìn trời chuyển mưa đen kịt. Cha tôi nói, sau cơn mưa này thế nào cá cũng lên. Thế là tôi với cha đội mưa để ở lại rình cá. Sáu giờ chiều, bầu trời thay hoàn toàn chiếc áo màu đen và gió bắt đầu thổi đến.
Lát sau, trời bắt đầu trút nước xuống như thác đổ, những lằn sét xanh đỏ như rạch nát bầu trời, những tiếng nổ từ không trung như muốn phá tan mặt đất… Mưa suốt mấy tiếng đồng hồ. Tôi và cha trùm tấm vải nhựa ngồi dưới bụi tre gai chịu trận suốt như vậy. Khi trời tạnh mưa, nước ngập lênh láng, không còn xác định được phương hướng; trời đất chỉ toàn một màu đen như mực.
Tôi còn nhớ khi đứng dậy, tôi và cha đều bị té ngửa ra phía sau, vì hai chân đã tê đến mất hết cảm giác. Chúng tôi cũng tìm ra được khỏi khu bàu Tròn và lần lên hướng các đám rẫy. Tôi mang rọng, cha tôi đội đèn cầm chĩa, men theo các rãnh nước bắt đầu rình cá. Cá lên ban đêm đa phần đều là cá lớn. Cha tôi tắt đèn, ngồi rình ngay một chỗ eo nước chảy, hễ nghe tiếng cá lóc lên là bật đèn chĩa liền…
Cứ như vậy mà đêm ấy, hai cha con làm được một rọng cá đầy. Gần sáng đem cá về, má tôi đem ra chợ bán. Trong lòng tôi thấy hạnh phúc khi làm ra những sản phẩm từ bàn tay lao động, từ những đêm mưa lạnh, vất vả, để đổi lấy hai chữ áo cơm…
Sau này, những cái bàu đầy tôm cá khi xưa đã không còn, khi dòng Tha La bắt đầu chịu sự tác động của hồ Dầu Tiếng. Dáng dấp con suối ngày xưa không còn nữa. Và tất nhiên những cái bàu ven suối cũng ngập chìm trong biển nước. Mỗi năm cứ vào mùa mưa, ngồi nhìn những cơn mưa trắng trời trắng đất mà lòng tôi chạnh nhớ về những kỷ niệm xa xưa.
Nhớ những ngày lang thang bên bờ suối, những ngày đi bắt cá nước ngược. Nhớ từng con cá trê lắc mình vượt cạn, con cá lóc đen thui vượt thác phóng lên, con rô đồng xanh kỳ gai nhọn hoắc ẩn mình trong đám cỏ xoáy trâu… Nhớ những đêm mưa mù mịt, bụng đói thân run… Tất cả đã là kỷ niệm của những tháng năm gian khổ, đói kém, nhưng cũng ngập tràn hạnh phúc của một thời thơ ấu.
Hoài Chi