Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Từ đỉnh cây Cầu Dừa, căng vồng như một cảnh dù lượn giữa đồng quê ấp An Lợi, tôi đã thấy mái tháp chuông tươi đỏ của nhà thờ Tha La. Thấp hơn, bên cạnh lại cũng một mái ngói dài, đỏ tươi đã vượt lên khỏi những vòm cây cao nhất của làng quê An Hội, An Hoà.
Bức tranh xứ đạo nhìn từ cây Cầu Dừa mới diễm lệ làm sao. Ðồng lúa Hè Thu trước mặt láng lai chan chảy màu xanh lá mạ. Vườn tược An Hội vun cao, xao xác bóng dừa. Tháp chuông như một ngón tay nuột nõn trỏ lên trời bảng lảng mây trắng nhuốm hồng sắc nắng. Không thể không nhớ đến bài thơ Tha La xóm đạo của Vũ Anh Khanh viết khoảng năm 1949.
Bài thơ có những câu: “Ðây Tha La xóm đạo/ Có trái ngọt cây lành/ Tôi về thăm một dạo/ Giữa mùa nắng vàng hanh/ Ngậm ngùi Tha La bảo:/ Ðây rừng xanh rừng xanh/ Bụi đùn quanh ngõ vắng/ Khói đùn quanh nóc tranh/ Gió đùn quanh mây trắng…”.
Năm 1949 còn chưa có ngôi nhà thờ quen thuộc mà người ta thấy lâu nay. Lại càng không thể có những màu tươi tắn ở ngôi thờ hiện tại. Tha La lúc ấy có lẽ còn nhiều rừng, suối vấn vít bao quanh con rạch Trảng Bàng. Nhắc đến con rạch, mới nhớ ra địa thế của nhà thờ Tha La. Có điều gì giống như một vài ngôi thờ tự dân gian Tây Ninh, như đình Long Thành hay đình Thạnh Ðức.
Cũng một con đường đổ xuôi xuống bến sông chạy qua trước mặt. Bến ở đây là bến Cầu Hàn, chỉ cách cổng nhà thờ hơn 500m. Cạnh bến là cầu Hàn, có đập bên trên để ta có thể leo lên nóc ngắm nhìn xa rộng một vùng sông. Cầu đập nhưng những chiếc ghe bầu năm bảy chục tấn vẫn thoải mái đi qua, xuôi ra sông Vàm Cỏ. Ngày nay, còn nhìn rõ phía bên Khu công nghiệp Thành Thành Công, la liệt các dãy nhà xưởng với các sắc màu đỏ, trắng hoặc xanh dương tươi sáng. Nhưng, có màu nào tươi hơn màu nóc tháp chuông lừng lững vươn cao như muốn chạm vào mây.
Có gì như vừa lạ, vừa quen ở ngôi nhà thờ tươi mới này đây. Dường như vẫn là ngôi thánh đường cũ với hai tấm mái ngói lớn đổ xuôi sang hai phía. Góc mái nhọn khiến đỉnh mái được vươn cao như một nóc nhà rông. Phần tiền sảnh cũng có hai mái cùng độ dốc nhưng được hạ xuống thấp hơn. Phía sau ngôi thánh đường cũng nổi bật lên một dãy nhà ngang mái tươi màu ngói đỏ.
Dưới mái sảnh, những mảng tường đá rửa xám màu xi măng và ô cửa đi vào hình góc cạnh đã không còn nữa, thay vào đó là một vòm cửa cong có đỉnh nhọn kiểu kiến trúc gothic mềm mại và uyển chuyển. Nhưng vẫn còn nguyên những đường diềm dưới mái, xếp thành 5-7 lớp hình kỷ hà, càng làm nổi bật hơn các đường cong lượn dịu dàng.
Ngay bên cạnh, phía bên phải là tháp chuông, vẫn là tháp cao 3 tầng có mặt bằng vuông nhưng diện mạo đã hoàn toàn đổi khác. Ðấy là do ở đỉnh ngôi tháp đã có thêm phần ngọn là mái tháp chuông nhọn hoắc hình tháp bút. Ðuôi mái xoè ra che chở thân tường. Còn đỉnh nhọn được gắn một cây thánh giá cao vời như lơ lửng giữa mây xanh. Bốn mặt tường tháp cũng đã đổi khác, với một đồng hồ và những ô cửa gió trong những khuôn hình vòm cong đỉnh nhọn. Tầng dưới cùng, mặt quay ra phía trước nay gắn một bức phù điêu mô tả các Thánh Tử đạo và Ðức Chúa trời. Phù điêu sơn nhũ màu đồng, bố cục trong một khuôn hình đỉnh nhọn với vòm cong cân xứng.
Nói tóm lại, đây vẫn là ngôi nhà thờ đã có từ năm 1970, dưới thời linh mục Gioakim Nguyễn Văn Nghị làm Chánh xứ. Lễ khởi công vào ngày 10.9.1967. Ba năm sau, ngày 13.12.1970, nhà thờ mới làm lễ khánh thành. Theo Vương Công Ðức trong Trảng Bàng phương chí, ấy là một trong vài ngôi nhà thờ xứ được coi là lớn nhất tại miền Nam, kích thước mặt bằng rộng 28 và dài tới 60m, tốn phí xây dựng tới 50 triệu đồng tiền miền Nam lúc ấy.
Cho đến năm 2016, công cuộc trùng tu mới được triển khai vẫn dựa trên cấu trúc chính của ngôi thờ cũ. Lối kiến trúc ban đầu là thuần Việt và giản dị, chủ yếu là mái nhà Việt cao, rộng mang ý nghĩa bao dung của Thiên Chúa. Và kiến trúc hôm nay mới tạo thêm những kết hợp với các vòm cong đỉnh nhọn của kiến trúc nhà thờ gothic. Lần trùng tu này, nhà thờ cũng được khéo léo mở rộng thêm bằng hai hành lang ở hai bên.
Ở Tây Ninh, không có nhà thờ công giáo nào có gốc gác xa xưa như ở Tha La. Sách Kỷ yếu Giáo phận Phú Cường (1965-2005) NXB Tôn giáo 2005 cho biết:- Giáo xứ được hình thành từ khoảng các năm 1837-1840 dưới thời vua Minh Mạng. Ðây là thời nhà Nguyễn cấm đạo gắt gao, nên một giáo dân gốc Huế là Coximo Nguyễn Hữu Trí đã đưa cả gia đình vào lánh nạn ở miền Nam.
Ông dừng chân ở xóm Tha La hẻo lánh năm 1837, quy tụ một số giáo dân cùng cảnh ngộ về bên nhau làm ăn sinh sống. Ðến năm 1860, mới có linh mục đầu tiên đến phục vụ, “chăm sóc phần hồn” cho dân xóm đạo Tha La; khi ấy mới chỉ có gần hai chục nóc nhà tranh. Phải đến năm 1966, Tha La mới chính thức trở thành giáo xứ. Ngôi nhà thờ đầu tiên được xây dựng ở đây là vào năm 1881 do linh mục Laurenso Bính, ông bà huyện Viên- một gia đình tín đồ giàu có và bà con đóng góp dựng nên. Từ năm 1957, trên góc trái sân nhà thờ có thêm một núi giả sơn.
Ðây là núi Ðức Mẹ, có mô hình hang đá Bê-lem, nơi Thiên Chúa ra đời. Dưới bóng me xanh mướt, đá núi sẫm đen làm nổi bật hai nấm mộ có bia bằng đá cẩm thạch trắng. Một bên là mộ ông bà Tri huyện Nguyễn Văn Viên, người bỏ nhiều tài lực góp xây dựng ngôi nhà thờ đầu tiên. Và ngôi mộ kia của người đầu tiên khai mở nên giáo xứ Tha la là Côximô Trí.
Trên bia đá vẫn còn rõ những dòng chữ nhũ vàng viết theo văn phong cổ thời đầu của chữ Quốc ngữ. Ðấy là: “COXIMO TRÍ/ HÃN NẰM ÐÂY/ Công đức cao dày, bia tạc nay/ sáng tạo Tha la đà rõ mặt/ Quý quyền câu họ, lãnh đầu tay/ Ghe phen tù rạc, vì danh Chúa/ Nhiều nỗi khổ hình bởi đạo ngay/ Tạ thế Canh Thân 1860/ Nơi khám thất/ Anh em giáo hữu chớ quên người”.
Hơn 180 năm đã trôi qua, từ xóm nhỏ hiu hắt chỉ vài chục mái tranh năm 1837 ấy, đến nay đã trở thành ấp An Hội sung túc, đông vui nhất xã An Hoà. Nhiều cuộc đời đã qua đây để lại tên tuổi và tâm huyết của mình với quê hương xứ đạo. Như lãnh binh Tòng khi bị Pháp truy đuổi gắt gao vào năm 1861 cũng tìm về Tha La ẩn tránh trong nhà một hương chức của đạo Thiên Chúa…(Ðịa chí Tây Ninh, trang 200- 201). Hay linh mục Nguyễn Bá Kính cũng từ đây ra đi tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp vào năm 1946…
Miền quê của “trái ngọt cây lành” nay có thêm tháp chuông nhà thờ Tha La, như một ngọn nến đỏ không bao giờ tắt dưới trời xanh.
TRẦN VŨ