Nằm bên bờ nam sông Mã, Đông Sơn là một làng nhỏ bên cạnh cầu Hàm
Rồng, giữa vùng đồng bằng hạ lưu sông Mã, nơi hội tụ những yếu tố đặc trưng của
một làng quê Việt Nam truyền thống. Đến với Đông Sơn là đến với một không gian
văn hoá lâu đời, giàu truyền thống. Hiện nay, người dân Đông Sơn đa phần vẫn giữ
được những nét đẹp truyền thống ngàn đời cha ông để lại.
 |
Cổng làng Đông Sơn |
 |
Giếng làng Đông Sơn |
Làng quần tụ dựa vào lưng núi
Rồng. Phía trước làng là cánh đồng rộng, màu mỡ, xung quanh ba phía của làng là
những núi đá nhỏ, đồi đất thấp nằm xen kẽ lẫn nhau có hình dáng kỳ dị, dân gian
cứ theo đó mà đặt tên cho từng quả đồi, ngọn núi. Hàm Rồng vốn là tên riêng của
ngọn núi hình đầu rồng với cái thân uốn lượn như một con rồng từ làng Giàng theo
dòng sông Mã bên phía bờ nam. Trên núi Rồng còn có động Long Quang có hang ăn
thông sang bên kia như hai mắt rồng. Sách Minh Trí nói về danh sơn kể tất cả hai
mươi mốt ngọn, trong đó có núi Hàm Rồng được tôn "Đệ nhất là Long Đại". Chung
quanh núi Hàm Rồng còn có nhiều ngọn núi trông rất ngoạn mục như Ngũ Hoa Phong
có hình năm đoá hoa sen chung một gốc mọc lên từ đầm lầy; núi Phượng, núi con
Voi có động Tiên và chùa Tiên Sơn. Động Tiên mới được phát hiện gần đây đã trở
thành một điểm du lịch hấp dẫn; có ngọn Phù Thi Sơn trông xa như một người đàn
bà thắt trên mình một dải lụa xanh nằm gối đầu vào thân rồng. Rồi núi Mẹ, núi
Con như hình hai quả trứng, núi Tả Ao, vũng Sao Sa có nước trong vắt quanh năm.
Rồi núi Con Mèo, núi Cánh Tiên với huyền thoại về những nàng tiên giáng thế...
Ít có một làng quê Việt Nam nào có bề dày lịch sử nghìn năm và quá trình phát
triển liên tục như làng cổ Đông Sơn. Làng cổ Đông Sơn được xem như một "niên
biểu" về sự phát triển liên tục từ buổi các vua Hùng dựng nước cho đến thời hiện
đại. Theo dòng lịch sử có thể thấy lịch sử của làng gắn liền với những bước
thăng trầm của lịch sử vùng đất xứ Thanh.
Từ thời kỳ dựng nước Văn Lang,
Đông Sơn đã là một làng nông nghiệp hình thành và phát triển lâu đời, có vị thế
trong khu vực. Phát hiện về di tích làng cổ Đông Sơn với niên đại hơn 2.500 năm
đã mở ra chương mới cho việc nghiên cứu văn minh Việt cổ thời dựng nước đầu
tiên. Từ đầu thế kỷ XX, Đông Sơn đã trở thành tên gọi cho một nền văn hoá khảo
cổ học nổi tiếng thế giới: Văn hoá Đông Sơn. Văn minh Đông Sơn đã trở thành một
nền văn minh tiêu biểu của tổ tiên ta thời kỳ dựng nước, trống đồng Đông Sơn trở
thành biểu tượng tài năng, trí sáng tạo của người Việt cổ buổi đầu tạo dựng văn
minh. Sau thời kỳ huy hoàng của văn hoá Đông Sơn, suốt ngàn năm Bắc thuộc, làng
cổ Đông Sơn vẫn nằm trong địa bàn quan trọng của vùng đất Cửu Chân. Dấu vết khu
cư trú, khu mộ táng của các thời kỳ: Hán, Đường, Lục Triều được phát hiện ở làng
Đông Sơn đã cho thấy sự phát triển liên tục của vùng đất này trong thời kỳ giao
thoa văn hoá Việt - Hán và các giai đoạn phát triển kế tiếp. Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, làng cổ Đông Sơn vẫn còn giữ được nhiều nét cổ kính của một
làng quê nông nghiệp truyền thống. Trong tương lai làng Đông Sơn sẽ được quy
hoạch, bảo tồn để trở thành một trong những làng cổ điển hình của làng quê đất
Việt.
 |
 |
Đúc trống |
Năm 1924 được coi là năm nền
văn minh Đông Sơn phát lộ. Từ đó, chưa một ai đúc lại được trống đồng. Trước năm
1975, các nhà quản lý văn hoá Việt Nam đã hơn 4 lần tìm cách đúc thử trống đồng,
nhưng hoàn toàn thất bại. Mãi đến năm 1975, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp
với các nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã mới đúc "thành hình" phiên bản trống đồng Ngọc
Lũ. Thành hình chứ không phải thành công, vì phiên bản này vẫn nặng hơn nguyên
bản đến... gần nửa tạ, thành trống dày hơn hẳn vì sợ thủng, hoa văn mờ tịt. Cho
đến hơn 30 năm sau mới có tin người Thanh Hoá đã đúc được phiên bản trống đồng.
Gia đình Nghệ nhân Lê Văn Du 82 tuổi đã nghĩ ngợi mất nhiều ngày rồi quyết định
sử dụng tất cả các phương pháp của người xưa để đúc trống đồng mà bố con cụ đã
quan sát được: Làm khuôn 3 mang ngoài, gồm 1 khuôn mặt, 2 khuôn thân. Khuôn
trong, còn gọi là "thao" khi ghép với khuôn ngoài thì được một bộ khuôn hoàn
chỉnh. Chất liệu làm khuôn cũng là đất sét, vỏ trấu. Lựa chọn hợp kim đồng -
thiếc - chì cũng là một hợp kim mà người xưa đã sử dụng, rồi tạo ra hệ thống các
con kê định vị để đóng vào khuôn mặt và khuôn ngoài của trống cũng là cách người
xưa làm để tránh cho khuôn bị xê dịch khi rót đồng. Chúng tôi đến khi gia đình
cụ Du đang đúc đồ thuê. Một chiếc khuôn đổ trống khổng lồ với con kê định vị to
như đống rơm nằm im lìm ở sân sau, cạnh ao bèo, phủ bạt, chờ ngày phá cổng đưa
ra cho thiên hạ ngắm. Mỗi chiếc khuôn trống vẽ tay bằng tre, xương vót nhọn chỉ
dùng được một lần, đổ xong là bỏ, lỡ hỏng phải làm lại từ đầu. Vậy nên trống
đồng chẳng khác gì người, có cao có thấp, có đẹp có xấu, không một chiếc nào
giống nhau hết cả. Giờ thì dân Đông Sơn sống bằng nghề đúc trống đồng, đồ đồng.
Người làm trống Quảng Xương, người làm trống Hoằng Hoá, người lại đúc trống Sông
Đà.... Xứ trống đồng đang thay da đổi thịt từ chính những tổ vật truyền đời.
Những người có tâm huyết với nghề còn muốn truyền lại cho con cháu họ ngón nghề,
để chẳng những có thể gìn giữ bản sắc văn hoá, mà còn làm giàu được từ nghề.
K.D (st)