Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
Dư luận xã hội- nhất là cán bộ, đảng viên thị xã Trảng Bàng rất bức xúc và bất bình trước hành vi chiếm dụng, không chấp hành bàn giao lại đất của bà Huỳnh Thị Lan Phương. Ðược biết, UBND tỉnh đang tập trung chỉ đạo UBND thị xã Trảng Bàng tiến hành các thủ tục pháp lý để xử lý dứt điểm việc chiếm dụng đất này theo đúng pháp luật.
Một góc khu đất 149,52 ha (ảnh chụp từ flycam do UBND thị xã Trảng Bàng cung cấp).
Thời gian qua, một số tờ báo có bài viết phản ánh nội dung đơn của bà Huỳnh Thị Lan Phương- ngụ phường Tân Ðịnh, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh về việc UBND thị xã Trảng Bàng yêu cầu bà thanh lý cây cao su, bàn giao đất lại cho Nhà nước là chưa hợp lý, hợp tình, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bà. Ðể bạn đọc hiểu rõ hơn, Báo Tây Ninh đã tìm hiểu và thông tin một cách đầy đủ, toàn diện vụ việc này như sau:
Chủ trương của tỉnh, thị xã trảng bàng là hợp tình, hợp lý
Nông trường Bời Lời trực thuộc Ty Nông nghiệp Tây Ninh (nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thành lập vào năm 1977 và được UBND tỉnh giao diện tích 6.140 ha đất tại hai huyện Trảng Bàng (nay là thị xã) và Gò Dầu để sản xuất nông nghiệp. Ðến năm 1990, nông trường này sáp nhập vào Nông trường Cao su trực thuộc Huyện uỷ Trảng Bàng và đổi tên thành Nông trường Cao su Bời Lời.
Trong quá trình quản lý, sử dụng đất giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1997, Nông trường Cao su Bời Lời có ký kết hợp đồng giao nhận khoán trồng và khai thác cây cao su với một số hộ dân, trong đó có bà Huỳnh Thị Lan Phương, ngụ tại số 44, đường Lý Văn Phức, phường Tân Ðịnh, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (ký hợp đồng nhận khoán năm 1994 là 50 ha và năm 1997 là 4,4 ha). Nội dung chính nêu trong hợp đồng đó là:
“Bên A là Nông trường Cao su Bời Lời giao đất cho bên B và có trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật trồng và khai thác cây cao su. Thời gian giao đất là một chu kỳ cây cao su “50 năm”. Hết hạn hợp đồng phải bàn giao đất lại cho nhà nước (năm 2043). Bên B có trách nhiệm:
- Ðầu tư trồng, chăm sóc, khai thác đúng quy trình kỹ thuật về cây cao su.
- Nộp cho bên A chi phí quản lý 1%/năm theo cách tính sản lượng thu thuế của Chi cục thuế. Nộp thuế theo luật định.
- Sau khi thu hoạch sản phẩm phải bán hết cho Nhà nước”.
Sơ đồ minh hoạ vị trí các thửa đất mà bà Phương vẫn đang canh tác cây cao su (hướng mũi tên).
Năm 1998, Nông trường Cao su Bời Lời giải thể, toàn bộ diện tích đất được giao cho Công ty Cao su 30/4 (trực thuộc Ban Tài chính quản trị Tỉnh uỷ Tây Ninh) quản lý. Như vậy, hợp đồng giao nhận khoán trồng cao su giữa Nông trường Cao su Bời Lời với bà Huỳnh Thị Lan Phương trên thực tế từ năm 1998 đến nay không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên như nội dung giao kết.
Mặt khác, về mặt pháp lý, nội dung hợp đồng cũng đã vi phạm pháp luật ngay từ khi ký kết, đó là Nông trường cao su Bời Lời không phải là cơ quan có thẩm quyền giao đất “50 năm” cho các hộ dân, trong đó có bà Lan Phương để trồng cây cao su.
Năm 2001, trên cơ sở rà soát lại đất đai của Công ty Cao su 30/4, UBND tỉnh đã thu hồi và giao một phần diện tích đất thuộc Nông trường Cao su Bời Lời trước đây đã giao cho Công ty Cao su 30/4 tại khu vực thuộc xã Ðôn Thuận (nay thuộc khu vực xã Hưng Thuận) về cho UBND huyện Trảng Bàng quản lý, trong đó có phần diện tích 55 ha mà bà Huỳnh Thị Lan Phương nhận khoán trồng cao su của Nông trường Cao su Bời Lời trước đây.
Về nguyên tắc, UBND huyện Trảng Bàng phải quản lý lại đất ngay sau khi được UBND tỉnh giao theo đúng quy định. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, các vườn cây cao su các hộ dân nhận khoán trước đây- trong đó có hộ bà Lan Phương, đang trong thời kỳ khai thác.
Ðể tránh thiệt hại cho người dân, UBND huyện Trảng Bàng chưa thu hồi mà để cho các hộ dân- trong đó có bà Lan Phương tiếp tục khai thác mủ cao su đến hết chu kỳ theo quy chuẩn chu kỳ cây cao su của Tổng Công ty Cao su Việt Nam (nay là Tập đoàn Cao vu Việt Nam) tối đa từ 20-25 năm tại Quyết định số 1461/QÐ-QLKT, ngày 20.8.2004.
Một góc nhìn từ trên cao đối với phần đất mà 32/33 hộ dân đã giao cho chính quyền quản lý (khu có nhà xưởng khoảng 50 ha, khoảng 43 ha đất trống đang chờ chuẩn bị đấu giá); ảnh chụp từ flycam do UBND thị xã Trảng Bàng cung cấp.
Việc làm trên của UBND huyện Trảng Bàng, xét về tình thì đạt, nhưng xét về lý thì chưa bảo đảm đúng theo quy định pháp luật về đất đai. Theo quy định của pháp luật về đất đai, các hộ dân trên- trong đó có bà Huỳnh Thị Lan Phương đang sử dụng đất công do địa phương quản lý, muốn tiếp tục sử dụng khai thác vườn cây cao su đến hết chu kỳ, phải chuyển sang hình thức thuê đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính khi sử dụng đất thuê theo quy định của pháp luật.
Năm 2013, để bảo đảm việc quản lý đất đai chặt chẽ, đúng quy định pháp luật, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Trảng Bàng yêu cầu các hộ dân và bà Huỳnh Thị Lan Phương thực hiện ngay việc ký kết hợp đồng thuê đất với địa phương đến hết năm 2017 (là năm kết thúc chu kỳ khai thác cây cao su theo quy chuẩn của Tập đoàn Cao su Việt Nam).
Bên cạnh những cây cao su già cỗi còn có những cây như mới được trồng sau này.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, đã có 26/33 hộ dân ký hợp đồng thuê đất đến năm 2017 (còn 7 hộ, vì nhiều lý do khác nhau, không đến ký hợp đồng, trong đó có bà Huỳnh Thị Lan Phương).
Từ cuối năm 2017 (hết thời hạn hợp đồng thuê đất) đến nay, đã có 32/33 hộ dân tự giác thanh lý vườn cây cao su, di dời tài sản và giao trả lại đất cho chính quyền địa phương quản lý (trong đó có 6 hộ dân trước đây không đến ký hợp đồng thuê đất nghiêm chỉnh chấp hành việc giao trả lại đất cho Nhà nước).
Ðiều này cho thấy chủ trương giải quyết của tỉnh, của huyện Trảng Bàng (nay là thị xã) về vấn đề này là có lý, có tình và được các hộ dân ủng hộ, chỉ duy nhất bà Huỳnh Thị Lan Phương không chấp hành chủ trương của tỉnh, không ký hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật, không thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất và đến nay vẫn chưa thanh lý vườn cây (đã hết chu kỳ khai thác 25 năm) để giao trả lại đất cho Nhà nước, dù chính quyền địa phương đã nhiều lần thông báo.
Hiện trạng vườn cây cao su của bà Phương bên cạnh diện tích đất đã được thu hồi (khu có diện tích hơn 50 ha).
Thay lời kết
Nguồn gốc đất (khoảng 55 ha) mà bà Huỳnh Thị Lan Phương ký hợp đồng nhận giao khoán trồng, khai thác cây cao su từ Nông trường Cao su Bời Lời trước đây là đất công do Nhà nước quản lý.
Hợp đồng nhận khoán không phát sinh quyền và nghĩa vụ trên thực tế kể từ khi Nông trường Cao su Bời Lời giải thể từ năm 1998 đến nay. Nhằm tránh thiệt hại cho người dân, chính quyền địa phương đã linh động cho các hộ dân và bà Lan Phương tiếp tục sử dụng cho đến hết chu kỳ khai thác cây cao su theo quy chuẩn canh tác cây cao su của Tập đoàn Cao su Việt Nam (tối đa từ 20 đến 25 năm), thể hiện trách nhiệm và quan điểm giải quyết có lý, có tình của chính quyền địa phương.
Như vậy, sau hơn 27 năm sử dụng đất công của Nhà nước để trồng cây cao su, không thực hiện nghĩa vụ thuê đất với Nhà nước, lợi ích mà bà Lan Phương thu được không nhỏ. Ngược lại, cũng từng đó năm, Nhà nước thất thu đối với diện tích đất công mà bà Huỳnh Thị Lan Phương đang chiếm dụng.
Vườn cây cao su già cỗi của bà Phương.
Việc UBND thị xã Trảng Bàng ra thông báo yêu cầu bà Huỳnh Thị Lan Phương tự giác thanh lý cây cao su đã hết chu kỳ khai thác 25 năm (hiện vườn cây đã già cỗi, không còn khả năng khai thác mủ) để bàn giao lại đất công cho chính quyền quản lý là đúng quy định, hợp tình, hợp lý, không gây bất cứ thiệt hại về lợi ích kinh tế nào như bà Lan Phương phản ánh.
Dư luận xã hội- nhất là cán bộ, đảng viên thị xã Trảng Bàng rất bức xúc và bất bình trước hành vi chiếm dụng, không chấp hành bàn giao lại đất của bà Huỳnh Thị Lan Phương. Ðược biết, UBND tỉnh đang tập trung chỉ đạo UBND thị xã Trảng Bàng tiến hành các thủ tục pháp lý để xử lý dứt điểm việc chiếm dụng đất này theo đúng pháp luật.
Minh Quốc-Ðại Dương