Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
TAND tối cao đã có Quyết định kháng nghị số 462/2011/DS-KN, đề nghị giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh, tạm đình chỉ thi hành án.

![]() |
Báo Tây Ninh phản ánh vụ việc của ông Nở |
Năm 2009, Báo Tây Ninh có loạt bài phản ánh việc ông Nguyễn Văn Nở (ngụ khu phố 4, phường 3, Thị xã) khiếu nại Thi hành án dân sự Thị xã (nay là Chi cục THADS Thị xã) thi hành bản án phúc thẩm số 270/2008/DSPT của TAND tỉnh về tranh chấp quyền sử dụng đất, buộc ông Nở giao phần đất 385m2 cho bà Khưu Hoà Cầm chưa đúng quy định pháp luật. Ông Nở cho rằng bản án phúc thẩm này có nhiều điểm chưa đúng, chưa rõ ràng, cần phải kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét nhưng THADS Thị xã vẫn tiến hành cưỡng chế, buộc ông Nở giao đất. Mới đây, TAND tối cao đã có Quyết định kháng nghị số 462/2011/DS-KN, đề nghị giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh, tạm đình chỉ thi hành án.
Đất sang nhượng, ở ổn định, không tranh chấp
Tại buổi xét xử phúc thẩm ngày 12.8.2008 của TAND tỉnh, ông Nguyễn Văn Nở trình bày, ngày 20.9.1993, ông Nở mua một phần đất của ông Võ Thái Hoà, sau đó đổ khoảng 100 xe đất san lấp mặt bằng để mở quán bán cà phê. Năm 2000, ông Nở tiếp tục mua tiếp phần đất còn lại của ông Hoà. Khi mua bán, ông Nở và ông Hoà có làm giấy tay mua bán và ông Nở quản lý sử dụng trong thời gian dài không ai tranh chấp. Thế nhưng, tại phiên toà, thẩm phán Hồ Thị Mối lại cho rằng phần đất tranh chấp là của ông Cao Văn Yên (ông nội chồng bà Cầm) cho bà Lê Thị Năm (mẹ của ông Hoà) ở đậu. Năm 1993, bà Cầm cùng các con được gia tộc chia cho phần đất trên. Bên bà Cầm cũng trưng ra tờ xác định chủ quyền xác định, bà Năm ở đậu đến khi chết sẽ trả lại. Toà cho rằng việc mua bán đất giữa ông Nở và ông Hoà không bảo đảm về hình thức và nội dung theo quy định pháp luật. Vì vậy, toà buộc ông Nở giao đất cho bà Cầm.
Trong quá trình thi hành án, ông Nở cho rằng toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi xét xử vi phạm tố tụng, tuyên án không rõ ràng, không đúng với thực tế. Tuy nhiên, việc phản ánh này không được cơ quan thi hành án lắng nghe, xem xét, kiến nghị về trên mà lại ra quyết định cưỡng chế thi hành.
Hàng loạt sai sót của cấp phúc thẩm
Tại Quyết định kháng nghị của TAND TC, Phó Chánh án TAND TC Hà Văn Tú cho biết, trong quá trình giải quyết vụ án, phía bà Cầm (bà Cao Thị Huệ Thanh, đại diện) cho rằng gia tộc bà đồng ý cho phần đất bà Năm đang quản lý sử dụng, nhưng toà tối cao nhận thấy trong biên bản họp gia tộc chỉ có nội dung “thống nhất giao cho các con ông Cao Văn Công (chồng bà Cầm) quyền tranh chấp phần đất cụ Yên cho bà 5 Lé mượn, lấy lại được các con ông Công sử dụng”. Như vậy, nội dung trên không thể hiện việc gia tộc cho các con của ông Công phần đất mà bà Năm đang sử dụng. Toà tối cao cũng xác định, biên bản xác định chủ quyền đất tuy có dấu vân tay ghi tên bà Năm nhưng văn bản trên cũng không có xác nhận hay chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, năm 1991, bà Năm, ông Công đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận đăng ký ruộng đất thửa đất trên. Toà tối cao cũng xác định, các cơ quan có thẩm quyền đều xác định diện tích đất bà Năm sử dụng do gia đình bà Năm khai phá đất công. Thực tế, gia đình bà Năm quản lý, sử dụng đất, xây cất nhà ở ổn định từ năm 1954. Nhưng khi cụ Yên còn sống, họ tộc của các nguyên đơn không ai tranh chấp. Khi ông Hoà chuyển nhượng đất cho ông Nở và khi ông Nở san lấp, xây dựng, sử dụng, nhưng mẹ con bà Cầm cũng không phản đối gì.
![]() |
Ông Nở và phần đất đã thi hành |
Toà tối cao nhận định: “Trong trường hợp này, lẽ ra phải xác minh làm rõ việc bà 5 Lé và bà Năm có phải là một người hay không, dấu vân tay tại biên bản xác định chủ quyền đất có phải của bà Năm, do bà Năm tự nguyện in hay không? Có hay không việc bà Cầm giao cho bà Năm 10 chỉ vàng, cũng như lý do bà Năm và ông Công kê khai thửa đất và được cấp giấy chứng nhận đăng ký ruộng đất, đồng thời xác minh nguồn gốc diện tích đất có tranh chấp thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án”. Toà tối cao cho rằng, cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ các vấn đề nêu trên nhưng lại căn cứ vào lời khai của mẹ con bà Cầm để xác định cụ Yên cho bà Năm ở nhờ, từ đó buộc anh Nở trả đất là chưa đủ căn cứ. Trong quá trình giải quyết vụ án, phía bà Cầm chỉ yêu cầu ông Nở trả 285m2, trong khi thực tế ông Nở đang sử dụng 385m2 mà toà án cũng không xác định diện tích dôi dư do đâu mà có, mà lại buộc ông Nở trả 385m2 là không có căn cứ. Khi xét xử, toà án cấp phúc thẩm buộc ông Nở trả đất cho bà Cầm nhưng lại không giải quyết hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Nở và ông Hoà, là không bảo đảm quyền lợi cho ông Nở. Sau khi ông Hoà chết, trước khi xét xử sơ thẩm, toà cũng không đưa vợ và các con ông Hoà tham gia tố tụng là không đúng. Ngoài ra, toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định chị Xuân là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trong khi chị Xuân đang định cư tại Mỹ, nhưng Toà án thị xã Tây Ninh lại thụ lý, giải quyết là không đúng thẩm quyền. Việc Toà án cấp phúc thẩm phát hiện ra sai sót của toà cấp sơ thẩm, mà vẫn đưa ra xét xử là không đúng.
Với hàng loạt những sai sót trên của toà cấp sơ thẩm và phúc thẩm, TAND TC quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh, đề nghị TAND TC xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm, tạm đình chỉ thi hành án.
Tuy nhiên, bất chấp việc ông Nở liên tục khiếu nại, cũng như dư luận phản ánh, cơ quan thi hành án vẫn thi hành bản án có quá nhiều sai sót nêu trên.
ĐỨC TIẾN