BAOTAYNINH.VN trên Google News

Xóm nông trường

Cập nhật ngày: 22/10/2009 - 11:07
HTML clipboard

Đó là tên do người dân ở thị trấn đặt cho cụm dân cư nằm bên bờ tây Suối Cạn, thuộc ấp Thạnh Tây, xã Thạnh Tây, huyện Tân Biên.

Gọi tên là xóm nông trường cũng dễ hiểu, vì trước đây khu vực này thuộc địa bàn Nông trường Thiện Ngôn, một trong số nông trường quốc doanh của tỉnh Tây Ninh, được thành lập từ những năm đầu thống nhất đất nước.

Chuyện ngày xưa

Tôi về thăm lại xóm nông trường khi cơn bão số 9 vừa tan. Suối Cần Đăng mùa này đang no nước, cuồn cuộn một dòng chảy đục ngầu đổ ra sông Vàm Cỏ. Đường vào xóm đã được lát nhựa, tuy chưa rộng rãi nhưng cũng đủ cho lưu thông thuận tiện. Nằm cách quốc lộ 22B chừng 1km, phía sau cái cổng sắt với hàng chữ “Ấp Văn hoá Thạnh Tây” còn rực màu sơn mới, ẩn trong chòm cây xanh rì yên ả, là xóm nông trường.

Trước kia, nơi đây bạt ngàn rẫy hoang. Việt kiều từ Campuchia về mang theo tập quán canh tác đốt rừng làm rẫy, sau khi trồng một vài mùa lúa, vụ bắp, đất hết chất màu, lại bỏ đi đến chỗ mới lại chặt cây, đốt rừng… và cứ tiếp tục như thế. Để lại phía sau dấu chân du canh của họ là đất đai hoang hoá, mặc cho cỏ Mỹ, lau sậy mọc thành rừng. Bản doanh nông trường nằm cạnh con suối nhỏ. Lơ thơ chục nóc nhà với mái tranh vách đất, vừa là nơi ở vừa là nơi làm việc cho khoảng 30 con người. Hầu hết đều là cán bộ “khung” từ các nông trường ngoài Bắc được điều động vào. Họ mang theo cả gia đình, bám trụ lâu dài để xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp xã hội chủ nghĩa kiểu mẫu trên miền đất mới mẻ này. Những năm sau chiến tranh biên giới Tây Nam, cuộc sống đã tạm yên, nhưng tàn quân Pôn Pốt vẫn còn quấy phá. Đêm đêm, phụ nữ và trẻ em của nông trường phải di chuyển sang bên kia suối, tạm trú ở các nhà dân. Chỉ còn lực lượng thanh niên và cánh đàn ông ở lại chia nhau canh gác. Lúc này, tình nghĩa giữa hai xóm ở hai bờ con suối rất chan hoà, thân thiện. Trong khó khăn họ chia nhau từng rổ khoai, mớ rau, con cá, những buồn vui, vất vả trong cuộc sống thường ngày, cả những âu lo về hiểm nguy mà kẻ thù chung đang rình rập đe doạ. Thời kỳ bao cấp, sản xuất chủ yếu là tự cung- tự cấp, tự sản- tự tiêu, người dân chưa thiết tha với ruộng rẫy. Không ai nghĩ đến chuyện tranh giành đất đai, càng không ai nghĩ lại có ngày họ vác gậy gộc, súng, dao đuổi nhau chỉ vì những thẻo đất nơi rừng rú hoang vu này.

Đường vào “xóm nông trường”.

Năm 1980, nông trường bắt đầu cắt lô, san ủi những thửa đất đầu tiên. Chuyện đền bù công khai phá cho người dân có đất trong khu vực nông trường diễn ra khá dễ dàng và thuận lợi. Mọi người vui vẻ nhận những đồng tiền gần như tượng trưng và giao đất cho nông trường, vì thật ra đã nhiều năm nay họ cũng chẳng canh tác gì trên đó. Tiếng máy ủi, máy cày, tiếng cưa, tiếng đục ầm ĩ ngày đêm tạo nên một không khí rộn ràng, nao nức, tràn trề hy vọng về một viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai. Rồi mai đây sẽ là những cánh đồng ngút mắt, những nhà máy chế biến nông sản hiện đại, những công trình hoành tráng mọc lên chốn này. Nông trường tuyển thêm công nhân, cán bộ kỹ thuật, xây dựng thêm nhiều nhà ở, phòng làm việc. Bà con, họ hàng, xóm giềng từ ngoài Bắc, Trung, các tỉnh lân cận quen biết với số công nhân, cán bộ nông trường kéo về đầu quân. Khi màu xanh của cây mía bắt đầu phủ kín những lô đất mới, nhịp độ sản xuất đang ồ ạt, khẩn trương, thì chuyện tranh chấp đất đai giữa nông trường với người dân địa phương cũng bắt đầu.

Nhiều cuộc họp được tổ chức ở nhiều cấp nhằm giải quyết việc đền bù công khai phá, thu hồi đất, hợp tác làm ăn trên diện tích đất giao cho nông trường quản lý đều không đạt kết quả. Mối hiềm khích giữa hai bờ con suối càng ngày càng quyết liệt. Khi nông trường đưa máy ra san ủi thì người dân bên này suối tụ tập thành nhóm đông người, tổ chức uống rượu tập thể để lấy “khí thế” và sau khi đã bừng bừng hơi men, họ mang súng ống, gậy gộc, dao rựa kéo nhau vào uy hiếp công nhân lái máy, thậm chí bắt người trái phép. Chuyện va chạm giữa thanh niên của hai xóm, chuyện chửi bới, nhục mạ nhau do một số phần tử quá khích kích động xảy ra như cơm bữa.

Năm 1985, một loạt các nông trường quy mô sản xuất nhỏ, kinh doanh kém hiệu quả được giao về cấp huyện quản lý, trong đó có Nông trường Thiện Ngôn. Số cán bộ khung hầu hết xin nghỉ hưu, bám lấy mảnh vườn, ao cá sinh sống cùng đồng lương hưu ít ỏi. Đến năm 1986, các nông trường, trạm trại trong tỉnh rộ lên phong trào khoán sản phẩm cuối cùng, hợp đồng liên kết làm ăn với tư nhân bằng hình thức chia sản phẩm theo tỷ lệ đầu tư. Công nhân nông trường cũng phải nhận khoán, nhưng điều đáng buồn là họ nhận khoán trên những diện tích đất bạc màu, năng suất thấp, sản lượng thu hoạch không đủ giao nộp, nợ nần chồng chất. Nông trường tiếp tục làm ăn thua lỗ, đến năm 1990 phải giải thể. Hơn 200 công nhân nông trường trút bỏ bộ áo quần công nhân, trở thành nông dân, bám trụ trên mảnh đất này để sinh sống và hình thành nên cụm dân cư mới. Với số vốn ít ỏi chắt chiu dành dụm được cùng mảnh đất nhỏ nông trường cấp thay cho tiền trả chế độ nghỉ việc, họ bắt đầu cuộc sống mới bằng sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó của mình. Đất đai như cũng thương những con người xa xứ, đã cho cây đươm hoa, kết trái, cho cuộc sống nẩy nở sinh sôi.

Chuyện ngày nay

Con suối Cạn giờ đã được đào sâu, cơi nới rộng rãi tạo cho dòng chảy thông thoáng. Tình nghĩa người dân hai xóm đã gần lại, chan hoà, thân thiện. Mối hiềm khích cũng dần dần được hoá giải. Rồi tình yêu lứa đôi, sự kết thân của những gia đình với nhau cũng bắt đầu hình thành, tạo mối dây ràng buộc xoá nhoà những đố kỵ ngày xưa. Xóm nông trường giờ đã thành cụm dân cư hiền hoà, yên ả hội nhập vào sức sống mới của cộng đồng. Đất lành chim đậu, dân tứ xứ đổ về an cư lập nghiệp trên mảnh đất này ngày càng đông. Sự phong phú đa dạng về văn hoá, tập quán, cách sống, kể cả ngôn ngữ vùng miền dần dần được trộn lẫn, điều chỉnh để trở thành “bản giao hưởng” nhiều màu sắc và cực kỳ ấn tượng. Số cán bộ “khung” ngày xưa đã vơi đi nhiều, những cụ còn lại cũng yếu lắm rồi. Lứa công nhân đầu tiên nay đã lên ông, lên bà, có kẻ mất, người còn theo quy luật khắc nghiệt của thời gian. Đặc biệt, lớp trẻ thuộc thế hệ thứ hai lớn lên trong nền nếp gia phong còn ảnh hưởng ít nhiều từ truyền thống gia đình công nhân xưa, hầu hết đều đã trưởng thành, chững chạc. Một số đã trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt hoặc tham gia công tác ở các ban ngành của địa phương, là giáo viên, cán bộ công chức huyện, tỉnh. Anh Nguyễn Minh Tâm - Bí thư ấp Thạnh Tây, thuộc thế hệ thứ nhất trưởng thành từ nơi này, không giấu vẻ tự hào: “Ấp hiện có 10 tổ tự quản với 452 hộ và 1.801 khẩu. Năm 2005 ấp được công nhận là Ấp Văn hoá, đến nay đã 5 năm liền giữ vững danh hiệu. Như anh biết, trước đây ngoài con đường trục chính được lát phún đỏ do nông trường để lại, thì hầu hết các đường liên tổ đều ở dạng nắng cát, mưa ngập, việc đi lại của bà con rất khó khăn. Nhưng đến nay, hầu hết các tuyến giao thông nông thôn đều đã hoàn chỉnh, thông thoáng, sạch đẹp, với tổng số vốn đầu tư trên 1,5 tỷ đồng. Riêng về nhà ở, 86% đã là nhà xây, nhà tranh tre vách đất tạm bợ nay không còn nữa. Điện thắp sáng phủ trên 90% hộ dân. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Hiện nay trong ấp chỉ còn 23 hộ nghèo, đa số là người mới nhập cư. Hầu hết các hộ cán bộ công nhân ngày xưa đều có đời sống kinh tế vững vàng, con cháu trưởng thành có công ăn việc làm ổn định. Một số vươn lên làm giàu, trở thành những tỷ phú nông dân ngay trên mảnh đất này. Trong 5 năm qua, ấp đã xây dựng được 29 nhà đại đoàn kết từ nguồn vận động đóng góp của các mạnh thường quân và nhân dân trong ấp”. Trầm ngâm trong giây lát, anh cho biết thêm: “Được như ngày hôm nay, điều trước tiên phải nói đến vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng. Chi bộ đã tạo được sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể và sự đồng thuận của nhân dân trong ấp. Đặc biệt, việc nêu cao tinh thần gương mẫu, đấu tranh mạnh mẽ với những hiện tượng tiêu cực, nhất là nêu gương tốt trong việc giáo dục con cháu giữ gìn truyền thống cha ông, nền nếp gia phong của các cụ hưu trí, những đảng viên lão thành đã có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng các phong trào ở địa phương. Trước mắt còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề cần phải tiếp tục phấn đấu, tuy nhiên ấp Thạnh Tây sẽ quyết tâm giữ vững danh hiệu Ấp Văn hoá trong nhiều năm nữa”.

...và khát vọng tương lai

Trong thinh không của trời chiều biên giới, tôi chợt nghe văng vẳng từ kỷ niệm tiếng kẻng tan tầm buông lơi từng nhịp, có cả bóng dáng những người công nhân trong trang phục bảo hộ lao động bước ra từ lô mía, ồn ã nói cười trên đường về nhà. Dù chưa có nhà máy, công trình hiện đại mọc lên nơi đây như trong mơ ước thuở nào, nhưng những gì người dân xóm nông trường làm được hôm nay cũng đủ khẳng định bản lĩnh của họ: biết vượt qua khó khăn, thích ứng với mọi hoàn cảnh để tồn tại và vươn lên trong cuộc sống.

Tháng 10.2009

PHƯỚC HỘI