HTML clipboard
Đó là tên do người dân ở thị
trấn đặt cho cụm dân cư nằm bên bờ tây Suối Cạn, thuộc ấp Thạnh Tây, xã Thạnh
Tây, huyện Tân Biên.
Gọi tên là xóm nông trường
cũng dễ hiểu, vì trước đây khu vực này thuộc địa bàn Nông trường Thiện Ngôn, một
trong số nông trường quốc doanh của tỉnh Tây Ninh, được thành lập từ những năm
đầu thống nhất đất nước.
Chuyện ngày xưa
Tôi về thăm lại xóm nông
trường khi cơn bão số 9 vừa tan. Suối Cần Đăng mùa này đang no nước, cuồn cuộn
một dòng chảy đục ngầu đổ ra sông Vàm Cỏ. Đường vào xóm đã được lát nhựa, tuy
chưa rộng rãi nhưng cũng đủ cho lưu thông thuận tiện. Nằm cách quốc lộ 22B chừng
1km, phía sau cái cổng sắt với hàng chữ “Ấp Văn hoá Thạnh Tây” còn rực màu sơn
mới, ẩn trong chòm cây xanh rì yên ả, là xóm nông trường.
Trước kia, nơi đây bạt ngàn
rẫy hoang. Việt kiều từ Campuchia về mang theo tập quán canh tác đốt rừng làm
rẫy, sau khi trồng một vài mùa lúa, vụ bắp, đất hết chất màu, lại bỏ đi đến chỗ
mới lại chặt cây, đốt rừng… và cứ tiếp tục như thế. Để lại phía sau dấu chân du
canh của họ là đất đai hoang hoá, mặc cho cỏ Mỹ, lau sậy mọc thành rừng. Bản
doanh nông trường nằm cạnh con suối nhỏ. Lơ thơ chục nóc nhà với mái tranh vách
đất, vừa là nơi ở vừa là nơi làm việc cho khoảng 30 con người. Hầu hết đều là
cán bộ “khung” từ các nông trường ngoài Bắc được điều động vào. Họ mang theo cả
gia đình, bám trụ lâu dài để xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp xã hội chủ
nghĩa kiểu mẫu trên miền đất mới mẻ này. Những năm sau chiến tranh biên giới Tây
Nam, cuộc sống đã tạm yên, nhưng tàn quân Pôn Pốt vẫn còn quấy phá. Đêm đêm, phụ
nữ và trẻ em của nông trường phải di chuyển sang bên kia suối, tạm trú ở các nhà
dân. Chỉ còn lực lượng thanh niên và cánh đàn ông ở lại chia nhau canh gác. Lúc
này, tình nghĩa giữa hai xóm ở hai bờ con suối rất chan hoà, thân thiện. Trong
khó khăn họ chia nhau từng rổ khoai, mớ rau, con cá, những buồn vui, vất vả
trong cuộc sống thường ngày, cả những âu lo về hiểm nguy mà kẻ thù chung đang
rình rập đe doạ. Thời kỳ bao cấp, sản xuất chủ yếu là tự cung- tự cấp, tự sản-
tự tiêu, người dân chưa thiết tha với ruộng rẫy. Không ai nghĩ đến chuyện tranh
giành đất đai, càng không ai nghĩ lại có ngày họ vác gậy gộc, súng, dao đuổi
nhau chỉ vì những thẻo đất nơi rừng rú hoang vu này.
![Xóm nông trường](/database/newsimg/2009/2210/nongtruong.jpg) |
Đường vào “xóm
nông trường”. |
Năm 1980, nông trường bắt
đầu cắt lô, san ủi những thửa đất đầu tiên. Chuyện đền bù công khai phá cho
người dân có đất trong khu vực nông trường diễn ra khá dễ dàng và thuận lợi. Mọi
người vui vẻ nhận những đồng tiền gần như tượng trưng và giao đất cho nông
trường, vì thật ra đã nhiều năm nay họ cũng chẳng canh tác gì trên đó. Tiếng máy
ủi, máy cày, tiếng cưa, tiếng đục ầm ĩ ngày đêm tạo nên một không khí rộn
ràng, nao nức, tràn trề hy vọng về một viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai. Rồi mai
đây sẽ là những cánh đồng ngút mắt, những nhà máy chế biến nông sản hiện đại,
những công trình hoành tráng mọc lên chốn này. Nông trường tuyển thêm công nhân,
cán bộ kỹ thuật, xây dựng thêm nhiều nhà ở, phòng làm việc. Bà con, họ hàng, xóm
giềng từ ngoài Bắc, Trung, các tỉnh lân cận quen biết với số công nhân, cán bộ
nông trường kéo về đầu quân. Khi màu xanh của cây mía bắt đầu phủ kín những lô
đất mới, nhịp độ sản xuất đang ồ ạt, khẩn trương, thì chuyện tranh chấp đất đai
giữa nông trường với người dân địa phương cũng bắt đầu.
Nhiều cuộc họp được tổ chức
ở nhiều cấp nhằm giải quyết việc đền bù công khai phá, thu hồi đất, hợp tác làm
ăn trên diện tích đất giao cho nông trường quản lý đều không đạt kết quả. Mối
hiềm khích giữa hai bờ con suối càng ngày càng quyết liệt. Khi nông trường đưa
máy ra san ủi thì người dân bên này suối tụ tập thành nhóm đông người, tổ chức
uống rượu tập thể để lấy “khí thế” và sau khi đã bừng bừng hơi men, họ mang súng
ống, gậy gộc, dao rựa kéo nhau vào uy hiếp công nhân lái máy, thậm chí bắt người
trái phép. Chuyện va chạm giữa thanh niên của hai xóm, chuyện chửi bới, nhục mạ
nhau do một số phần tử quá khích kích động xảy ra như cơm bữa.
Năm 1985, một loạt các nông
trường quy mô sản xuất nhỏ, kinh doanh kém hiệu quả được giao về cấp huyện quản
lý, trong đó có Nông trường Thiện Ngôn. Số cán bộ khung hầu hết xin nghỉ hưu,
bám lấy mảnh vườn, ao cá sinh sống cùng đồng lương hưu ít ỏi. Đến năm 1986, các
nông trường, trạm trại trong tỉnh rộ lên phong trào khoán sản phẩm cuối cùng,
hợp đồng liên kết làm ăn với tư nhân bằng hình thức chia sản phẩm theo tỷ lệ đầu
tư. Công nhân nông trường cũng phải nhận khoán, nhưng điều đáng buồn là họ nhận
khoán trên những diện tích đất bạc màu, năng suất thấp, sản lượng thu hoạch
không đủ giao nộp, nợ nần chồng chất. Nông trường tiếp tục làm ăn thua lỗ, đến
năm 1990 phải giải thể. Hơn 200 công nhân nông trường trút bỏ bộ áo quần công
nhân, trở thành nông dân, bám trụ trên mảnh đất này để sinh sống và hình thành
nên cụm dân cư mới. Với số vốn ít ỏi chắt chiu dành dụm được cùng mảnh đất nhỏ
nông trường cấp thay cho tiền trả chế độ nghỉ việc, họ bắt đầu cuộc sống mới
bằng sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó của mình. Đất đai như cũng thương những
con người xa xứ, đã cho cây đươm hoa, kết trái, cho cuộc sống nẩy nở sinh sôi.
Chuyện ngày nay
Con suối Cạn giờ đã được đào
sâu, cơi nới rộng rãi tạo cho dòng chảy thông thoáng. Tình nghĩa người dân hai
xóm đã gần lại, chan hoà, thân thiện. Mối hiềm khích cũng dần dần được hoá giải.
Rồi tình yêu lứa đôi, sự kết thân của những gia đình với nhau cũng bắt đầu hình
thành, tạo mối dây ràng buộc xoá nhoà những đố kỵ ngày xưa. Xóm nông trường giờ
đã thành cụm dân cư hiền hoà, yên ả hội nhập vào sức sống mới của cộng đồng. Đất
lành chim đậu, dân tứ xứ đổ về an cư lập nghiệp trên mảnh đất này ngày càng
đông. Sự phong phú đa dạng về văn hoá, tập quán, cách sống, kể cả ngôn ngữ vùng
miền dần dần được trộn lẫn, điều chỉnh để trở thành “bản giao hưởng” nhiều màu
sắc và cực kỳ ấn tượng. Số cán bộ “khung” ngày xưa đã vơi đi nhiều, những cụ còn
lại cũng yếu lắm rồi. Lứa công nhân đầu tiên nay đã lên ông, lên bà, có kẻ mất,
người còn theo quy luật khắc nghiệt của thời gian. Đặc biệt, lớp trẻ thuộc thế
hệ thứ hai lớn lên trong nền nếp gia phong còn ảnh hưởng ít nhiều từ truyền
thống gia đình công nhân xưa, hầu hết đều đã trưởng thành, chững chạc. Một số đã
trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt hoặc tham gia công tác ở các ban ngành
của địa phương, là giáo viên, cán bộ công chức huyện, tỉnh. Anh Nguyễn Minh Tâm
- Bí thư ấp Thạnh Tây, thuộc thế hệ thứ nhất trưởng thành từ nơi này, không giấu
vẻ tự hào: “Ấp hiện có 10 tổ tự quản với 452 hộ và 1.801 khẩu. Năm 2005 ấp được
công nhận là Ấp Văn hoá, đến nay đã 5 năm liền giữ vững danh hiệu. Như anh biết,
trước đây ngoài con đường trục chính được lát phún đỏ do nông trường để lại, thì
hầu hết các đường liên tổ đều ở dạng nắng cát, mưa ngập, việc đi lại của bà con
rất khó khăn. Nhưng đến nay, hầu hết các tuyến giao thông nông thôn đều đã hoàn
chỉnh, thông thoáng, sạch đẹp, với tổng số vốn đầu tư trên 1,5 tỷ đồng. Riêng về
nhà ở, 86% đã là nhà xây, nhà tranh tre vách đất tạm bợ nay không còn nữa. Điện
thắp sáng phủ trên 90% hộ dân. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày
càng được nâng cao. Hiện nay trong ấp chỉ còn 23 hộ nghèo, đa số là người mới
nhập cư. Hầu hết các hộ cán bộ công nhân ngày xưa đều có đời sống kinh tế vững
vàng, con cháu trưởng thành có công ăn việc làm ổn định. Một số vươn lên làm
giàu, trở thành những tỷ phú nông dân ngay trên mảnh đất này. Trong 5 năm qua,
ấp đã xây dựng được 29 nhà đại đoàn kết từ nguồn vận động đóng góp của các mạnh
thường quân và nhân dân trong ấp”. Trầm ngâm trong giây lát, anh cho biết thêm:
“Được như ngày hôm nay, điều trước tiên phải nói đến vai trò lãnh đạo của chi bộ
Đảng. Chi bộ đã tạo được sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, chính quyền, các ngành,
đoàn thể và sự đồng thuận của nhân dân trong ấp. Đặc biệt, việc nêu cao tinh
thần gương mẫu, đấu tranh mạnh mẽ với những hiện tượng tiêu cực, nhất là nêu
gương tốt trong việc giáo dục con cháu giữ gìn truyền thống cha ông, nền nếp gia
phong của các cụ hưu trí, những đảng viên lão thành đã có tác dụng rất lớn trong
việc xây dựng các phong trào ở địa phương. Trước mắt còn nhiều khó khăn, nhiều
vấn đề cần phải tiếp tục phấn đấu, tuy nhiên ấp Thạnh Tây sẽ quyết tâm giữ vững
danh hiệu Ấp Văn hoá trong nhiều năm nữa”.
...và khát vọng tương lai
Trong thinh không của trời
chiều biên giới, tôi chợt nghe văng vẳng từ kỷ niệm tiếng kẻng tan tầm buông lơi
từng nhịp, có cả bóng dáng những người công nhân trong trang phục bảo hộ lao
động bước ra từ lô mía, ồn ã nói cười trên đường về nhà. Dù chưa có nhà máy,
công trình hiện đại mọc lên nơi đây như trong mơ ước thuở nào, nhưng những gì
người dân xóm nông trường làm được hôm nay cũng đủ khẳng định bản lĩnh của họ:
biết vượt qua khó khăn, thích ứng với mọi hoàn cảnh để tồn tại và vươn lên trong
cuộc sống.
Tháng 10.2009
PHƯỚC HỘI