Pháp luật   An ninh - Quốc phòng

BAOTAYNINH.VN trên Google News

VỤ ÁN HAI TRẺ “YÊU NHAU”, BỊ HẠI CÓ HAI GIẤY KHAI SINH:

Y án phúc thẩm, bị cáo không phạm tội 

Cập nhật ngày: 21/05/2020 - 14:07

BTN - Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vừa ban hành quyết định giám đốc thẩm, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tối cao, giữ nguyên bản án phúc thẩm trước đây của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bị cáo Đặng Thanh Tuấn không phạm tội Hiếp dâm trẻ em.

Bị cáo Đặng Thanh Tuấn và luật sư Nguyễn Hữu Lộc, trong ngày TAND tỉnh tuyên trả tự do

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vừa ban hành quyết định giám đốc thẩm, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tối cao, giữ nguyên bản án phúc thẩm trước đây của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bị cáo Đặng Thanh Tuấn không phạm tội Hiếp dâm trẻ em.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đặng Thanh Tuấn - sinh ngày 25.5.1999, ngụ ấp Ninh Phú, xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu và cháu Lê N.T.T yêu nhau. Từ ngày 25.7.2015 đến ngày 7.11.2015, Tuấn 6 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu T.T tại một nhà trọ. Ngày 9.11.2015, chị Lê Hồng Thuý là mẹ đẻ của cháu T.T làm đơn tố cáo hành vi của Tuấn.

Năm 2016, Viện KSND tỉnh truy tố Tuấn phạm tội Hiếp dâm trẻ em. Ngày 11.3.2016, khi xét xử, TAND tỉnh trả hồ sơ yêu cầu cơ quan điều tra giám định xác định tuổi bị hại. Sau đó, 20.4.2016, TAND tỉnh xét xử sơ thẩm lần 1, tuyên án bị cáo Tuấn 8 năm tù. Ngày 6.12.2016, TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, huỷ án sơ thẩm. Ngày 8.9.2017, xét xử sơ thẩm lần 2, TAND tỉnh tuyên Tuấn không phạm tội Hiếp dâm trẻ em, trả tự do tại phiên toà.

Sau đó, Viện KSND tỉnh kháng nghị, ngày 11.7.2018, TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên án sơ thẩm. Ngày 5.7.2019, Viện trưởng Viện KSND tối cao có quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm bản án phúc thẩm, đề nghị TAND tối cao huỷ 2 bản án phúc thẩm và sơ thẩm.

DIỄN BIẾN LIÊN QUAN VỤ ÁN

Quyết định giám đốc thẩm nêu: cháu Lê N.T.T, sinh ngày 2.10.2002 (theo giấy khai sinh), sinh ngày 6.11.2002 (theo cáo trạng). Mẹ cháu T.T là chị Lê Hồng Thuý. Theo lời khai của chị Thuý, khoảng cuối năm 2001, chị Thuý và anh Nguyễn Thanh Phong giao cấu với nhau, chị Thuý có thai, sinh cháu T.T vào ngày 6.11.2002 (tức ngày 2.10.2002 âm lịch) tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Cha chị Thuý là ông Lê Hồng Hưng đưa chị Thuý đến bệnh viện sinh.

Theo lời khai của ông Hưng, thời điểm đó chị Thuý mới 13 tuổi nên ông lấy tên em gái ông là Lê Thị Hoa khai với nhân viên y tế nhưng ghi sai thành Lê Kim Hoa. Gia đình ông Hưng khó khăn, không có tiền đóng viện phí, chị Thuý bỏ trốn, không lấy giấy chứng sinh nên giấy chứng sinh của cháu T.T vẫn lưu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh.

Theo giấy chứng sinh này, tên mẹ cháu T.T là Lê Kim Hoa, không có chồng, ngụ Ninh Phú, Bàu Năng, Dương Minh Châu, sinh con gái lúc 2 giờ 40 phút ngày 6.11.2002. Quá trình điều tra, xác minh chị Lê Thị Hoa (là em gái ông Hưng) từ khi lập gia đình đã bị bệnh không thể sinh con.

Sau khi chị Thuý sinh con, ông Hưng đã cho ông Phạm Văn Hon (là anh rể của ông Hưng) nuôi cháu T.T. Ông Hon tự đi đăng ký khai sinh cho cháu T.T, lấy tên Nguyễn Thị Thuý Liễu, sinh ngày 20.1.2004 và ghi tên vợ chồng người con của ông Hon là Nguyễn Thành Long, Trương Thị Kim Thoa là cha mẹ cháu T.T.

Nếu theo giấy khai sinh này, tính đến ngày bị Tuấn giao cấu thì cháu T.T mới 11 tuổi, thấp hơn nhiều so với tuổi thật. Năm 2007, chị Thuý đưa cháu T.T về nuôi và đi đăng ký khai sinh lại cho con mình là Lê N.T.T, sinh ngày 2.10.2002 (chị Thuý lấy ngày âm lịch để khai sinh cho cháu T.T).

Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Hồ Chí Minh kết luận, tại thời điểm giám định (ngày 22.2.2017), cháu T.T có độ tuổi từ 14 năm 4 tháng đến 14 năm 10 tháng. Kết luận giám định pháp y về ADN ngày 11.5.2017, xác định, Lê Hồng Thuý là người mẹ sinh học của cháu T.T.

Kháng nghị của Viện KSND tối cao cho rằng, hồ sơ vụ án có đủ tài liệu, chứng cứ xác định ngày sinh của bị hại T.T là ngày 6.11.2002. Do đó, khi bị Tuấn giao cấu, T.T mới 12 năm 19 tháng 3 ngày. Hành vi của Tuấn đủ yếu tố cấu thành tội Hiếp dâm trẻ em.

Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào Bản kết luận giám định ngày 31.3.2017 của Phân viện Khoa học Hình sự tại TP. Hồ Chí Minh là tài liệu duy nhất để kết luận về độ tuổi của cháu T.T là chưa chính xác, còn mâu thuẫn với nhiều tài liệu, chứng cứ khác.

Theo kết luận giám định, khoảng thời gian xác định ngày sinh của cháu T.T là từ ngày 22.4.2002 đến ngày 22.10.2002, Toà án cấp sơ thẩm lấy ngày đầu tiên là ngày 22.4.2002, còn Toà án cấp phúc thẩm lại lấy ngày ở khoảng giữa là ngày 22.7.2002 để xác định ngày sinh của bị hại là không có căn cứ pháp luật. Từ đó, kết luận tại thời điểm bị cáo và bị hại giao cấu lần đầu, bị hại đã đủ 13 tuổi là không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án nên kháng nghị huỷ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN TỐI CAO

Qua xem xét kháng nghị, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao nhận định rằng, quá trình điều tra ban đầu, chị Thuý khai, chiều ngày 5.11.2002, chị được ông Hưng đưa đến bệnh viện sinh cháu T.T vào khoảng 3 giờ 15 phút ngày 6.11.2002 (tức ngày 2.10.2002 âm lịch).

Sau này, đi làm giấy khai sinh lại (đăng ký trễ hạn vào ngày 25.7.2007) cho cháu T.T thì chị lấy ngày sinh là ngày 2.10.2002 (âm lịch). Ông Hưng khai, cháu T.T sinh vào ngày tháng nào không nhớ, chỉ nhớ sinh năm 2002. Do có lời khai xác định cháu T.T sinh ngày 6.11.2002 ông cho rằng, do chị Thuý ghi lại nên ông nhớ chính xác.

Tại phiên toà sơ thẩm, chị Thuý khai, ông Hưng là người đi làm giấy khai sinh cho cháu T.T, khi đi không mang theo giấy chứng sinh do “dọn nhà nên thất lạc”. Trong khi đó, ông Hưng khai rằng, không nhớ có mang theo giấy chứng sinh hay không.

Ông Hưng không nhớ ngày sinh cháu T.T, chỉ nhớ tháng 10 âm lịch. Do mâu thuẫn trong việc xác định độ tuổi của cháu T.T nên Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung, đề nghị thu thập giấy chứng sinh của cháu T.T và tiến hành giám định độ tuổi cháu T.T.

Quá trình điều tra lại vụ án, ngày 22.3.2016, ông Hưng cho rằng, do lúc chị Thuý sinh con mới 13 tuổi, không thể làm giấy chứng sinh cho cháu T.T nên ông lấy tên của người em gái út là Lê Thị Hoa đứng tên trong giấy chứng sinh.

Giấy chứng sinh đã mất từ lâu và ông không biết để ở đâu. Ông Hưng còn khai, khi đưa chị Thuý đi sinh có gặp anh Phan Hoà Đông. Anh Đông khai, anh lên bệnh viện chăm vợ là chị Đặng Kim Phượng sinh con gái vào ngày 2.11.2002, anh gặp ông Hưng. Khi hỏi thì ông Hưng cho biết là đi nuôi con gái đang sinh. Chị Phượng khai, không gặp ông Hưng mà chỉ nghe chồng nói lại là gặp ông Hưng đi chăm con gái đẻ.

Ông Phạm Văn Hon, anh rể của ông Hưng, là người nhận nuôi cháu T.T khai, vào khoảng năm 2004, ông nhận nuôi cháu T.T và tự đi làm giấy khai sinh cho cháu là Nguyễn Thị Thuý Liễu, sinh ngày 20.1.2004. Ông không nhớ ngày tháng năm sinh của cháu T.T. Ông cũng không có giấy chứng sinh của bệnh viện. Bà Lê Thị Nga (là chị gái của ông Hưng) khai có đi phụ giúp đưa cơm cho chị Thuỷ lúc sinh cháu T.T tại bệnh viện nhưng chỉ nhớ khoảng tháng 11.2002.

Ngày 25.3.2016, Cơ quan điều tra kiểm tra sổ cấp giấy chứng sinh lưu tại khoa Sản bệnh viện, thể hiện tại số cấp giấy chứng sinh số 5374 có họ tên người mẹ Lê Kim Hoa - 24 tuổi, nghề nghiệp nội trợ, ngụ Ninh Phú, Bàu Năng, Dương Minh Châu, không có chồng, đã sinh con gái cân nặng 2.900g lúc 2 giờ 40 phút ngày 6.11.2002. Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã thu giữ một giấy chứng sinh tại bệnh viện có nội dung tương tự. Xác minh tại địa phương theo địa chỉ trên, nhưng không có ai tên là Lê Kim Hoa.

Theo lời khai của ông Hưng, việc nhầm lẫn giữa Lê Kim Hoa và Lê Thị Hoa trong giấy chứng sinh là do ông khai nhầm nhưng ông khẳng định Lê Kim Hoa trong giấy chứng sinh là Lê Thị Hoa, em gái ông. Khi xuất viện, chị Thuý không lấy giấy chứng sinh vì chị tự xuất viện nên cũng không biết có giấy chứng sinh hay không.

Như vậy, lời khai của chị Thuý, ông Hưng và những người làm chứng về ngày tháng sinh của cháu T.T có mâu thuẫn, kể cả việc ông Hưng lấy tên Lê Thị Hoa trong giấy chứng sinh của cháu T.T cũng không ai biết (kể cả chị Thuỷ).

Quá trình điều tra ban đầu, ông Hưng không khai về giấy chứng sinh này, mà chỉ sau khi điều tra lại mới khai. Những lời khai của ông Hưng về giấy chứng sinh còn nhiều mâu thuẫn như đã nêu trên. Mặt khác, theo giấy chứng sinh do Cơ quan điều tra thu giữ thì tên người mẹ là Lê Kim Hoa, không phải Lê Thị Hoa như ông Hưng khai.

TAND tối cao kết luận, do các tài liệu chứng cứ để xác định ngày tháng năm sinh của cháu T.T có mâu thuẫn nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã trưng cầu giám định độ tuổi đối với cháu T.T là có căn cứ pháp luật. Kết luận giám định pháp y là căn cứ khoa học để xác định ngày tháng năm sinh của cháu T.T.

Kết luận giám định pháp y của Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Hồ Chí Minh, tại thời điểm giám định, cháu T.T có độ tuổi từ 14 năm 4 tháng đến 14 năm 10 tháng, nghĩa là cháu T.T được sinh khoảng từ ngày 22.4.2002 đến ngày 22.10.2002.

Theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo, khi xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12.7.2011, thì ngày tháng sinh của cháu T.T là ngày 22.4.2002 mà Toà án cấp sơ thẩm xác định là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ngày 25.7.2015, Tuấn giao cấu với cháu T.T, thời điểm này cháu T.T đã 13 tuổi 3 tháng 2 ngày. Theo quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Tuấn không phạm tội Hiếp dâm trẻ em.

Mặt khác, Tuấn và cháu T.T yêu nhau, việc giao cấu hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, cưỡng bức. Khi thực hiện hành vi giao cấu, Tuấn đủ 16 tuổi 2 tháng. Vì thế, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào kết luận giám định độ tuổi của cháu T.T, quyết định Tuấn không phạm tội Hiếp dâm trẻ em là đúng pháp luật.

ĐỨC TIẾN