BAOTAYNINH.VN trên Google News

Đôi điều về thơ

Cập nhật ngày: 10/03/2011 - 12:23

Tôi đã từng ngồi một buổi chiều nghe vợ thầy giáo dạy tôi thuở nhỏ, một người đàn bà không hề biết một chữ, đọc thơ ngẫu hứng kiểu xuất khẩu thành thơ. Thôi thì bỏ qua những ngây ngô của người không chữ đi, vẫn tìm thấy trong những câu thơ sáng tác miệng của bà tình yêu chồng, yêu con, yêu cháu nội, cháu ngoại, yêu bờ tre, gốc lúa. Tất nhiên, bà già không chữ ấy chẳng biết thế nào là ngôn ngữ, vậy mà bà đã khoét được một lỗ hổng trên bức tường ngôn ngữ để tìm được người đồng cảm, chí ít là tôi. Mà thơ của bà, toàn là lục bát. Bây giờ người ta xưng tụng loại thơ chỉ cần tứ, không cần vần, không cần niêm luật, nhưng theo tôi, lục bát vẫn là một thứ thơ khó “nhằn” nhất. Thơ đã vào hồn sống của bà nên bà đã đọc ra bằng chính tâm can bà vậy.

Tôi không phải là người làm thơ, nhưng cũng có lúc chỉ có thơ mới thay tôi nói được những điều chất chứa trong lòng với số chữ ít nhất. Càng làm, tôi càng thấy rõ một điều: thơ bản thân nó nằm sẵn trong mỗi con người. Nhưng trời cho ai thiên chức thì người đó làm thơ được. Còn nếu trời không cho thì lâu lâu nói ra, đọc ra và khơi khơi ra có người nghe được, thấy được thì gật gù: thơ đấy chứ ở đâu nữa. Hiện nay, thơ Việt Nam trong giai đoạn, theo tôi, đang bị rẻ rúng. Người ta in thơ nhiều quá. Tốt thật. Nhưng chính vì in ấn dễ dãi như thế nên bản thân thơ không còn có sức hấp dẫn người đọc nữa. Trong thế giới thơ rậm rạp như hiện nay, tìm cho được một tác giả mới là điều rất khó. Tìm cho ra một tập thơ hay, một bài thơ hay càng khó hơn. Việt Nam phải trải qua không biết mấy thế kỷ mới có thơ mới giai đoạn trước của thế kỷ XX. Rồi thơ yêu nước. Yêu nước thời chống Pháp, yêu nước thời chống Mỹ. Giai đoạn trước những năm ba mươi có thơ lãng mạn, thơ tình yêu trai gái. Còn sau này khi những cuộc chiến đấu của dân tộc chống ngoại xâm thì dòng thơ hiện thực phê phán tồn tại thật khách quan. Thế mà lúc đó người ta yêu thơ, thuộc thơ. Thậm chí có người chép tay những bài thơ để mang theo trong những chiếc ba lô trên đường ra trận. Những người làm phê bình lúc đó đã “nâng chất” các bài thơ, khiến thơ gắn vào với cuộc sống mỗi con người lúc bấy giờ. Sức học của người Việt Nam lúc bấy giờ đâu có bằng bây giờ. Phương tiện thông tin đại chúng đâu có nhiều như bây giờ. Thế mà “HẠNH PHÚC” của Bùi Minh Quốc, “CUỘC CHIA LY MÀU ĐỎ” của Nguyễn Mỹ, sau này là “LỬA ĐÈN” của Phạm Tiến Duật, “NĂM ANH EM TRÊN MỘT CHIẾC XE TĂNG” của Hữu Thỉnh theo bao nhiêu người hành quân vào trận. Người ta không chỉ thuộc những bài thơ ngắn, có người thuộc cả những trường ca. Những nhà phê bình lúc đó đã làm được việc giới thiệu tác phẩm thơ đến với muôn người.

Hôm nay hình như có khác. Thơ hướng đến “NGƯỜI” hơn. Vì thế lúc này mới sinh ra thơ làm theo lối ngày xưa và thơ làm theo lối “hậu hiện đại”, “tân hình thức”. Cái cũ chưa qua, cái mới tràn đến, giữa cái cũ cái mới, lâu lâu lại đụng nhau. Người thơ kiểu mới thì chỉ trích người làm thơ kiểu cũ là bảo thủ. Người thơ kiểu cũ thì gồng lên trách cứ sự phá cách của thơ kiểu mới. Nhưng theo tôi, hình thức cũ hay mới gì thì cũng là thơ. Mà đã là thơ thì phải tạo được sự đồng cảm giữa người làm thơ với người đọc. Vì thế tôi mới nói người làm thơ và người đọc thơ đều là nghệ sĩ. Nghệ sĩ cả trong việc đọc thơ ai, đọc làm gì, đọc thơ nào, và... không ngó đến thơ cũng là một thứ nghệ sĩ vậy. Cho nên, rất cần có người làm cho những nghệ sĩ đọc biết đọc cái gì, đọc ra sao.

Bây giờ, người làm thơ nhiều nên các nhà phê bình không biết chọn ai mà giới thiệu. Có thì cũng đôi ba lần, rồi thôi. Các nhà phê bình, những người có chức năng làm cho người làm thơ và người đọc thơ gần nhau lại, bây giờ hình như chưa làm được chức phận ấy. Thấp thoáng trên những tờ báo có hơi hướng thơ ca, lâu lâu có bài phê bình thơ đấy. Nhưng ở hai dạng dễ thấy. Dạng thứ nhất: khoe mình hiểu thơ từ trong nước đến nước ngoài. Dùng bao nhiêu thứ lý thuyết của trời nào đâu áp đặt vào dòng thơ ca Việt. Hoặc viết rất dài, rất dai, nhưng cuối cùng là những lý sự chung chung, rối mù, đến người làm thơ cũng... mù tịt, chứ đừng nói gì đến người đọc thơ. Bây giờ này, rất nhiều người cổ suý cho trào lưu thơ hiện đại: làm cho người đọc biết thơ mới nó là cái gì. Trả lời câu hỏi ấy chỉ là những bài viết chung chung, lý sự chung chung hoặc treo lơ lửng trên đầu người đọc một mớ hàng mới, nhưng mới thế nào, dùng để làm gì thì không ai biết. Sẽ có người cãi với tôi rằng: làm phê bình là làm khoa học. Làm khoa học về thơ. Tôi biết điều đó. Nhưng khoa học gì đi nữa, trước hết, phải làm cho người đọc hiểu được thơ đã. Người làm thơ nào chẳng muốn thế. Nếu không thơ họ chỉ dùng để trang trí hay cất trong bảo tàng hay sao?

Nếu có một nhà phê bình nào đó tìm cho ra cái hay trong thơ của các nhà thơ trẻ Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư rồi viết và bảo với người đọc là: nó hay là nhờ thế, nhờ thế đó, may ra mới lôi kéo được người đọc đến với thơ mới. Còn nếu không, thì cũng chỉ những nhà lý sự tranh cãi nhau, chứ người đọc thông thường... xin phép, không hiểu, đi chỗ khác chơi! Người đọc thơ có cái quyền tối thượng: thích thì đọc, không thích thì thôi. Họ còn có một cái quyền nữa: chỉ ra cho họ thơ hay, nhưng họ lại bảo: hay cái gì mà hay! Cho nên người giới thiệu thơ phải làm công việc giống như dắt người tình đi tới cõi mộng mơ ấy. Từ từ, dẫn dụ, rồi người ta sẽ đến. Gần đây, nhiều người có sáng kiến là trình diễn thơ. Có người đọc thơ này. Có người làm nhạc nền cho thơ này. Có thể thêm người múa, người biểu diễn hình thể minh hoạ cho thơ. Nhưng thơ đâu có cần sự hoành tránh như thế. Nó là thứ để người ta đọc cho nhau nghe, hoặc đọc một mình để chiêm nghiệm để thưởng thức như thưởng thức một món ăn ngon, một ly rượu ngon vậy. Ở Việt Nam tôi biết khá nhiều người đọc thơ rất hay: Quang Hưng ngày xưa. Tuấn Phong ngày nay. Buông từng câu, từng chữ, nghe như móc ruột, móc gan ra. Bây giờ đúng là thiếu người chỉ ra cho những người đọc bình thường hiểu thế nào là thơ hay. Người đọc bây giờ không biết thưởng thức thơ thế nào. Đọc thơ nghe như sa vào mê hồn trận vậy.

Ép làm sao được. Gần đây, tôi có đọc một số bài viết về thơ trào lưu mới. Tôi không thấy được cái đích là tìm thấy cái đẹp trong thơ, mà chỉ thấy họ dạy người ta là thơ phải nhiều chiều, phải đa cảm xúc, phải chất chứa sự sống, thế thì thơ của ai, thơ nào làm được những việc như thế? Vi Thuỳ Linh ư? Văn Cầm Hải ư? Phan Huyền Thư ư? Hay là nhóm Ngựa Trời? Hay là Hoàng Hưng và Ly Hoàng Ly? Người đọc không cần lý sự, họ cần là sự hướng dẫn cụ thể. Nên nếu có thể phải có cả một chương trình phân tích thơ của họ, đưa người đọc đến với họ. Người đọc phải là số đông, chứ không chỉ vài người tự cho mình “am hiểu” rồi bắt những người khác am hiểu như mình. 

Có một điều tôi dám chắc thế này: bây giờ nếu ai thuộc thơ, thì nhất định là sẽ thuộc thơ từ 1975 trở về trước, những năm 30 của thế kỷ 20. Sẽ rất nhiều người thuộc. Các nhà phê bình cùng thời nhất định thuộc. Còn bây giờ, tôi không tin các nhà phê bình có thể thuộc nhiều thơ của những người làm thơ mà họ cổ suý.

Có lẽ tại báo chí thông tin không đầy đủ nên tôi thấy có một lỗ hổng quá lớn đó là: người làm phê bình có trách nhiệm gì với người sáng tác và người đọc. Làm gì để qua phê bình, người đọc tìm đến thơ. Nếu không làm được công việc này thì các nhà phê bình chỉ là những người phô kiến thức với một mớ kiến thức suông thôi. Thơ rất cần người đọc đồng điệu.

NGUYỄN ĐỨC THIỆN