Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng 30-4
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng 30-4
Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh – Người đi mở cõi phương Nam
Thứ bảy: 09:14 ngày 19/04/2025

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - Quảng Bình tiết Thanh minh mưa bay lất phất, trời se lạnh như chiều lòng những người con Quảng Bình sống ở phương Nam về quê viếng mộ. Rải bước dưới chân đồi An Mã nghe vọng về câu ca dao của một thời xa xưa “Đến đây xứ sở lạ lùng/Con chim kêu cũng sợ, tiếng cá vùng cũng kinh”.

Ông Nguyễn Thế Bông (bên trái), ngụ TP. Hồ Chí Minh, mỗi lần về quê đều đến viếng mộ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh.

Câu ca dao nhắc đến một vùng đất phương Nam của Tổ quốc, đó là xứ Đồng Nai, Sài Gòn hình thành cách đây hơn 300 năm. Vùng đất đó đã gắn bó nhiều với tên tuổi, công lao và sự nghiệp của một người con Quảng Bình rất đáng tự hào, đó là Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người có công mở cõi phương Nam.

Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi cao, thoáng mát của dãy núi An Mã thuộc xã Trường Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ. Nguyễn Hữu Cảnh là quan có công lớn dưới thời chúa Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Trong lịch sử Việt Nam, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) luôn được ngưỡng mộ, quan tâm đặc biệt của lớp lớp hậu thế. Bởi ông là danh tướng văn võ song toàn, vừa có công dẹp yên biên thuỳ, vừa có công mở mang bờ cõi.

Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại thôn Phước Long, Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông được phong tước Lễ Thành hầu, Khai Quốc Công Thần, liệt vào hạng Thượng đẳng công thần và thờ ở Thái Miếu.

Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là một vị tướng quốc, một bậc công thần đời chúa Nguyễn Phúc Chu, là họ hàng 9 đời với Nguyễn Trãi, là con thứ ba của Tiết chế Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật. Nguyễn Hữu Cảnh từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, văn võ song toàn; từng là sư tổ của môn phái võ lâm có danh hiệu “Bạch hổ sơn quân phái”, lại là con nhà tướng nhiều đời cho nên khi lớn lên, Nguyễn Hữu Cảnh đã từng theo cha tham gia nhiều trận mạc, lập nhiều chiến công, được nhiều người kính trọng, nể phục, được Chúa Nguyễn trọng dụng, phong tước Lễ Thành hầu và giao giữ chức Cai cơ.

Không chỉ có biệt tài về quân sự, Nguyễn Hữu Cảnh còn có tài điều hành, tổ chức và thu phục nhân tâm. Năm Nhâm Thân (1692), Chúa Nguyễn phái Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh vào phương Nam kinh lược để tổ chức, ổn định lại bộ máy ở vùng đất vừa mới được bình định.

Trong cuốn “Gia Định thành thông chí” Trịnh Hoài Đức có ghi lại: “Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh lấy Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị”.

Từ vùng đất hoang sơ, thiếu sự sống, bằng tài thao lược, tổ chức của mình, sau 2 năm Nguyễn Hữu Cảnh đã ổn định được phủ Bình Thuận, làm cho người Chăm vốn sinh sống rải rác, nghèo khó ở vùng đất này đi theo quan quân triều đình lập ấp xây dựng làng mạc, xóm thôn ở vùng đất mới. Ông cũng đã xây dựng được tinh thần hoà hợp giữa hai cộng đồng vốn xa lạ là người Chăm và người Kinh. Với những công lao to lớn của Nguyễn Hữu Cảnh, ông đã được Chúa Nguyễn sắc phong Chưởng cơ và cử làm Trấn phủ dinh Bình Khương (ngày nay thuộc tỉnh Khánh Hoà).

Năm Mậu Dần 1698, Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn phong làm Thống suất, cử vào kinh lược xứ Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé. Với bản lĩnh của một người từng xông pha trận mạc, Nguyễn Hữu Cảnh đã động viên, khuyến khích quân sĩ, cư dân quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn, vạch kế hoạch cấp thiết, liên tiếp thực hiện khai hoang mở cõi, dàn xếp biên cương, bảo vệ chủng dân và vùng đất mới, thiết lập các cơ sở hành chính từ thôn đến xã, lập phủ Gia Định và chính thức sáp nhập vào quốc gia Đại Việt, chiêu mộ cư dân và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Tận tâm, tận lực cùng cư dân và quan binh, chỉ trong một thời gian, Nguyễn Hữu Cảnh đã ổn định được tình hình, mọi hoạt động ở vùng đất mới mở đi vào quy củ.

Không chỉ mở mang, khai hoang những vùng đất ở Sài Gòn, Đồng Nai, Nguyễn Hữu Cảnh còn tiến xa thêm đó là khai khẩn mở rộng bờ cõi ra cả vùng Nam Bộ ngày nay. Với tầm nhìn xa trông rộng cùng với chính sách "chiêu hiền đãi sĩ" kịp thời của Nguyễn Hữu Cảnh, rất đông cư dân vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế ngày nay), Quảng Nam, Quảng Ngãi đã tự nguyện theo Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lập quê mới với một quyết tâm: “Làm trai cho đáng nên tra/Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai đã từng”. Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập xã thôn, phường ấp, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Vùng đất Tây Ninh lúc này thuộc huyện Tân Bình.

Trước thế kỷ XVI, vùng đất Tây Ninh vẫn còn là một vùng hoang sơ, chưa được khai phá. Đến thế kỷ XVII, những lớp lưu dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng - Đàng Trong theo Nguyễn Hữu Cảnh vào vùng Đồng Nai - Gia Định khai khẩn ruộng vườn, lập làng dựng ấp. Chính sự hiện diện của những lớp lưu dân người Việt với các hoạt động khai khẩn đất đai, phát triển sản xuất đã hình thành và phát triển vùng đất Tây Ninh.

Sau khi ông mất, nhân dân miền Nam nói chung và nhất là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long lập miếu thờ ông ở nhiều nơi như Biên Hoà (Đồng Nai), Cù Lao ông Chưởng, Long Điền, Kiến An, Vĩnh Ngươn, Châu Đốc, Rạch Gầm, Thới An… đều có lập đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh.

Sau cuộc bình định, ngày 5.9 năm Canh Thìn (tức năm 1700), Nguyễn Hữu Cảnh đi thuyền trở về Dinh Trấn, đến địa phận ngã ba Tiền Giang - Rạch Gầm thì bị bệnh và mất đột ngột. Linh cữu của Nguyễn Hữu Cảnh được đưa về an táng cạnh dinh Trấn Biên, thôn Bình Hoành, Cù Lao Phố, tỉnh Đồng Nai. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban sắc phong truy tặng cho Nguyễn Hữu Cảnh là Hiệp Tán công thần, đặc tấn Chưởng dinh tráng Hoàng hầu, thuỵ là Trung Cần.

Từ những ngày đầu tiên đặt chân đến vùng đất phương Nam cho đến cuối cuộc đời, Nguyễn Hữu Cảnh luôn lấy tinh thần đoàn kết, tình tương thân tương ái để chiến thắng mọi khó khăn, trở ngại. Chính điều đó đã làm cho tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Hữu Cảnh sống mãi trong bao thế hệ người dân Nam Bộ và người dân cả nước nói chung.

Tấm bia đá trước lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh.

Đến năm 1802, di hài của Nguyễn Hữu Cảnh được hậu duệ cải về an táng tại xã Trường Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ. Trong khuôn viên lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh, có tấm bia đá cao khoảng 1,2m, được tạc bằng đá. Phía trước tấm bia có 3 dòng chữ được dịch là: Người mở mang đầu tiên miền Nam bậc khai quốc thần thượng cấp của triều Nguyễn; Mộ Vĩnh an hầu Nguyễn Hữu Kính; Người cháu 4 đời của quý hương quan cai quản đạo quân hưng nghĩa Ngũ Đức Hầu Nguyễn Hữu Mạn lập bia mộ vào thời Gia Long sơ niên.

Vốn sinh ra và lớn lên ở mảnh đất có truyền thống nhân nghĩa, Nguyễn Hữu Cảnh luôn dành nhiều tình yêu thương và đối xử nhân hậu đối với quan quân triều đình và người dân. Trong lòng người dân phương Nam, từ lâu ông đã trở thành ân nhân, là vị thánh đã cho họ một cuộc sống mới, là người khai phá, mở đất phương Nam.

Nguyễn Thế

Tin cùng chuyên mục