Theo dõi Báo Tây Ninh trên
Điều gì làm nên sức mạnh của một quốc gia trong thế kỷ 21? Đó không chỉ là công nghệ, kinh tế hay nguồn tài nguyên, mà còn là sự phát huy tối đa tiềm năng của mọi công dân, trong đó có phụ nữ - lực lượng chiếm một nửa dân số. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ không chỉ là yêu cầu chính trị, mà còn là động lực xây dựng đất nước phồn vinh trong kỷ nguyên mới.

Các nữ đại biểu bên lề Kỳ họp thứ V - Quốc hội khoá XV ẢNH: QUOCHOI.VN
Thực tiễn gần 80 năm lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, nhất là thành công của 40 năm đổi mới, sau khi có đường lối chính trị đúng đắn, nhân tố quyết định mọi thành công là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngang tầm trọng trách chính trị và phù hợp với lịch sử.
Trong trọng sự ấy, trọng trách xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ các cấp, giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang tầm vóc, sức mạnh chính trị to lớn mà còn mang ý nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng đối với việc kiến tạo và phát huy vị thế, vai trò và sức mạnh quốc gia trên trường quốc tế.
Khi phụ nữ nước nhà là hơn nửa dân tộc; là nhân tố hợp nên nền móng căn cơ đất nước; là “hàn thử biểu” về danh dự, uy tín và tiến bộ xã hội của quốc gia trên trường quốc tế trong thực thi mục tiêu cao cả về bình đẳng giới thì công việc đó càng mang ý nghĩa to lớn và mang tầm vóc đặc biệt quan trọng.
Trước thềm kỷ nguyên mới, với sứ mệnh phát triển quốc gia, trọng sự đó đang thật sự là một thách thức nghiêm khắc và nặng nề đối với sự phát triển của phong trào phụ nữ và của đất nước.
Tầm nhìn của Đảng và quyết sách kiến tạo, phát huy sức mạnh đội ngũ cán bộ nữ 20 năm qua
Tiếp tục thành tựu 20 năm đổi mới, nghiêm khắc chỉnh đốn những bất cập, xuất phát từ yêu cầu đổi mới toàn diện, ngày 29/11/2006, Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI thông qua Luật Bình đẳng giới, nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý thúc đẩy bình đẳng giới trên phương diện chính trị. Và, ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW “Về công tác cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, khẳng định: Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Vì thế, cần xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để chủ động về nhân sự; thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ.
Đại biểu Nàng Xô Vi - Đại biểu Quốc hội đầu tiên của dân tộc Brâu
Hiện thực hoá tư tưởng của Bộ Chính trị, ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới 2011-2020, với mục tiêu “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân quy định, bảo đảm ít nhất 35% là nữ trong tổng số người ứng cử. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 215/QĐ-TTg, ngày 16/2/2011, hướng dẫn về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cần đạt tỷ lệ 30% trở lên là phụ nữ.
Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 2/7/2018, của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo và các cơ quan dân cử, đặc biệt đối với nữ lãnh đạo trẻ, nữ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số.
Cùng với đổi mới thể chế, Chính phủ thực thi các đề án, dự án về vấn đề này. Nổi bật là Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10/5/2017, về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, khẳng định về bình đẳng giới; nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sự đồng thuận và ủng hộ của hệ thống chính trị và Nhân dân đối với việc tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý. Và, Chính phủ tiếp tục ưu tiên bố trí ngân sách cho công tác bình đẳng giới ở cả Trung ương và địa phương.
Trên nền tảng đó, sự tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị đất nước đã chuyển động tích cực.
Nếu năm 2017, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt 27,1% (cao hơn mức trung bình 23,4% của toàn cầu và 18,6% của châu Á); tỷ lệ nữ làm Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội tăng lên (tháng 12/2016 là 23,1%, cao hơn 12 điểm phần trăm so với tháng 12/2011); số bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 13/30 (chiếm 43%) và năm 2018 là 14/30, chiếm 47% thì năm 2020, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72% - đứng thứ 18 trên thế giới.
Và, đến tháng 3/2023, cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII có 19 người (chiếm 9,5%); 3 ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 3 bộ trưởng, 10 thứ trưởng và tương đương, 34 nữ phó chủ nhiệm và ủy viên thường trực ủy ban, cơ quan của Quốc hội. Ban Chấp hành đảng bộ cấp tỉnh (nhiệm kỳ 2020 - 2025) có 16% là nữ; cấp huyện có 17% là nữ; 61/63 tỉnh, thành phố có cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ với tỷ lệ ở cấp tỉnh thấp nhất là 11,3%, cao nhất là 35%; cấp huyện là 15,3% (cao hơn 3,4% so với nhiệm kỳ trước).
Tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử tăng so với nhiệm kỳ trước với 151 đại biểu nữ tham gia Quốc hội khóa XV, đạt 30,2% (cao hơn 3,5% so với nhiệm kỳ trước và vượt chỉ tiêu 30%). Tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, thành phố và cấp huyện đạt 29% (tăng so với nhiệm kỳ trước). Nhìn khái lược, gần 20 năm qua, số nữ Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng tăng liên tiếp trong 03 nhiệm kỳ; tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội khóa XIV tăng 2,3 điểm phần trăm so với khóa XIII và 1 điểm phần trăm so với khóa XII.
Những thành quả đó cho thấy, xu hướng tích cực về sự tham gia của phụ nữ vào hệ thống chính trị. Và, với tỷ lệ này, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tỷ lệ nữ tham gia lĩnh vực chính trị cao của thế giới.
Cử tri xã Suối Bu (huyện Văn Chấn, Yên Bái) nêu kiến nghị tại một buổi tiếp xúc cử tri của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái - ẢNH: TTXVN
Cần tiếp tục nhận diện những thách thức cấp bách
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ, nổi bật mấy vấn đề căn bản và quan trọng cấp bách, đòi hỏi tiếp tục giải quyết trên tầm vĩ mô nhưng thiết thực và cụ thể:
Mâu thuẫn giữa sự cố hữu định kiến giới về vai trò của phụ nữ với yêu cầu phát triển của đất nước và phong trào phụ nữ.
Nếu định kiến giới là nhận thức, hành động của xã hội về khả năng và hoạt động từ địa vị xã hội, với tư cách dù là nam hay nữ thì phải chăng, định kiến giới đang đến từ nam giới và không ít cấp uỷ, chính quyền “dành ưu tiên” cho phụ nữ, với “sự tưởng tượng” và áp đặt một chiều cho họ những “phẩm cách”: rụt rè, cảm tính, bị động, thiếu quyết đoán…?
Phải chăng, những nhận thức thiên lệch, đánh giá và nhận xét thiếu khách quan và công bằng đối với phụ nữ, khi họ tham chính, vô hình tạo tâm lý xã hội chưa coi trọng đúng đắn năng lực của phụ nữ, từ đó hạn chế cơ hội phát triển của họ? Phụ nữ luôn bị “phân thân”, thậm chí mặc định tự áp đặt sự thiên lệch về vai trò giới giữa việc nước, việc nhà, thiên chức trong gia đình với trách nhiệm công dân và trách nhiệm xã hội.
Phải chăng, định kiến giới truyền thống đang “khuôn” phụ nữ vào việc chỉ “vẫy vùng” trong chăm sóc gia đình, việc cộng đồng và xã hội chỉ dành cho nam giới; phụ nữ không thích hợp với công tác lãnh đạo, quản lý, không nhìn xa trông rộng bằng nam giới…? Vô hình trung tạo nên xu hướng chỉ ủng hộ nam giới tham chính, trong khi phụ nữ và nam giới có cùng phẩm chất, năng lực và ngang nhau về điều kiện cần thiết; khiến cho nhiều người, nhiều cấp có thẩm quyền thiếu hành động trong việc đào tạo, sử dụng cán bộ nữ.
Phải chăng, sự lệch lạc trong nhận thức về vai trò giới ở không ít cấp uỷ, chính quyền đang chi phối khả năng và “bó hẹp” năng lực tham chính của phụ nữ, khiến họ gặp khó khăn, ít được ủng hộ vào các vị trí lãnh đạo có tầm ảnh hưởng lớn? Nhiều cấp, nhiều nơi phân biệt độ tuổi trong quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, nhất là về hỗ trợ khi họ tham gia đào tạo, bồi dưỡng, sự bất cập về chính sách cử tuyển cán bộ nữ vùng dân tộc thiểu số… đã và đang làm trầm trọng hơn tình hình phụ nữ ngại ngần tham chính?
Phải chăng, công tác kiểm tra việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị chưa được quan tâm đúng mức, đầy đủ, đặc biệt đối với quy trình phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ? Đặc biệt do chưa có chế tài phù hợp đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền khi không thực thi vấn đề này đã cản trở phụ nữ tham chính?
Phải chăng, yếu tố gia đình đang là khó khăn, trở ngại nhất đối với sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, khi tình thế đẩy họ buộc phải lựa chọn giữa công việc gia đình và công việc xã hội? Và, phải chăng ngay trong nữ giới cũng “tự nhiễm” định kiến giới, khi một bộ phận không nhỏ cán bộ nữ tự sa vào yếm thế, cho rằng việc gia đình mới là thiên chức của mình và việc tham chính là công việc của nam giới? Vả nữa, những định kiến này không chỉ từ xã hội, trong gia đình mà còn hiện hữu ngay trong chính phụ nữ: tự ti, yếm thế về vị thế, năng lực, nhất là quyền và trách nhiệm tham chính. Rốt cuộc, họ an phận, thiếu ý chí vươn lên và không chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để tham chính.
Mâu thuẫn giữa thực thi các chỉ tiêu về bình đẳng giới trong tham gia chính trị với sự bất cập về tầm nhìn, hệ thể chế và khả năng và thực thi hệ định chế phát triển chiến lược.
Một trong những câu hỏi lớn đặt ra là, vì sao dù sự quan tâm đối với vấn đề bình đẳng giới cao hơn, nhận thức của cán bộ và nhân dân về vai trò của phụ nữ tăng lên, sự hỗ trợ của xã hội, các tổ chức quốc tế đa dạng hơn nhưng sự tiến bộ về tham gia chính trị của phụ nữ vẫn rất chậm chạp? Phải chăng là cơ chế lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ nữ, cụ thể là cơ chế bầu cử, cơ chế đào tạo, cơ chế bổ nhiệm chưa tương xứng? Và, phải chăng việc ghép tiêu chuẩn ứng cử viên trẻ, nữ, dân tộc thiểu số trong các cuộc bầu cử, đề cử chức danh ở không ít nơi đang như một “công thức” hiện nay?
Thực tế cho thấy, việc lồng ghép giới đang gặp khó khăn do thiếu sự cam kết của không ít cấp; tình trạng thiếu nguồn lực và cán bộ thiếu năng lực; thiếu hệ thống giám sát, đánh giá, quy trách nhiệm; thiếu số liệu cần thiết để phân tích về bất bình đẳng giới… vô hình đặt nam và nữ trên những mặt bằng so sánh khác nhau. Đồng thời, đang gây khó khăn cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Đặc biệt, trong công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, phải chăng chưa dựa trên việc phân tích một cách khoa học; việc phát hiện các nhân tố tiềm năng nữ để bồi dưỡng và quy hoạch sớm, trong nhiều trường hợp còn mang tính hình thức, nên bị động trong tạo nguồn đội ngũ cán bộ nữ? Những quy định về độ tuổi nghỉ hưu khác nhau, đang vô hình khép kín cơ hội của cán bộ nữ? Vấn đề cử tuyển đào tạo cán bộ nữ trong các dân tộc thiểu số chưa được chú ý xứng đáng mang tầm chiến lược?
Hơn nữa, việc đào tạo, sử dụng cán bộ nữ chưa tính đến thời gian sinh con và nuôi con của phụ nữ, một trách nhiệm hết sức lớn lao mà nam giới không thể thay thế được hoàn toàn nhưng chưa được chú ý xứng tầm?
Chính những khó khăn này làm chậm bước tiến đồng bộ và lâu dài của nhiều phụ nữ, khiến cho nhiều tổ chức rơi vào hẫng hụt, thậm chí là “khoảng trống” đối với không ít chị em.
Mâu thuẫn giữa vị thế và thực lực của Hội LHPN các cấp với yêu cầu của sự phát triển, sự biến động nhanh, mạnh và đa dạng của đội ngũ cán bộ nữ và phong trào phụ nữ.
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chăm lo toàn diện phụ nữ, giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ; là nơi tham mưu chính sách, xây dựng, phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện các chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới, nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ nhưng, phải chăng ở không ít cấp Hội việc tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới còn hạn chế, thiếu chủ động và thiếu thiết thực? Đặc biệt, có nơi còn chưa dũng cảm và kiên trì bảo đảm và bảo vệ quyền tham chính của chị em? Và, công tác đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho hệ thống chính trị đang thiếu tính chiến lược…?
Những rào cản vô hình, nhất là định kiến giới đó, tiếp tục cản trở phụ nữ tiếp cận các cơ hội bình đẳng với nam giới, khiến phụ nữ thường bị “khuôn cứng” ở vị trí thấp hơn, ít ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách và ra quyết định hơn so với nam giới.
Tiếp tục kiến tạo, phát triển đội ngũ cán bộ nữ ngang tầm lịch sử, xứng đáng với vị thế và sức mạnh của phụ nữ quyền, các đoàn thể và nhân dân; đồng thời, đấu tranh với những biểu hiện phân biệt đối xử, định kiến trong việc đánh giá, tuyển chọn và đề bạt cán bộ nữ. Mặt khác, cần xây dựng, ban hành chính sách phù hợp và hiệu quả dành cho nhóm đối tượng nữ mang tầm tổng thể; thiết lập chế tài hợp lý, đủ sức răn đe, nhằm xử lý triệt để các vi phạm cản trở sự phát triển và “đóng băng” cơ hội làm việc, tham gia các hoạt động chính trị - xã hội và phát triển của cán bộ nữ.
Không thay đổi nhận thức từ mỗi gia đình, dòng họ và toàn xã hội về ủng hộ quyền tham chính của phụ nữ, thật khó bảo đảm điều kiện và tạo cơ hội khuyến khích nữ giới phát triển. Đây đang là những rào cản tạo sự trì trệ, làm chậm sự tiến bộ của phụ nữ. Nhất là sự định kiến về phụ nữ: cam chịu, nhẫn nhịn, coi thường phụ nữ, không ủng hộ phụ nữ thăng tiến từ phía người mẹ, người chồng và dòng họ,… đang làm nặng nề thêm sự mặc cảm đó, vô hình cản trở và kéo lùi sự nỗ lực tham chính của nữ giới.
Thứ hai, đổi mới tổng thể cơ chế và hệ thống thể chế đối việc với phụ nữ tham chính và phát triển đội ngũ cán bộ nữ.
Đổi mới, xây dựng, thiết lập cơ chế đảm bảo nền giáo dục công bằng - bình đẳng cho cả nam và nữ về cơ hội tiếp cận giáo dục, quyền học tập đầy đủ, toàn diện; ưu tiên và phát triển giáo dục đối với nữ giới vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ nhìn nhận đúng vị trí, giá trị bản thân, tự tin tham gia hoạt động chính trị - xã hội.
Lồng ghép vấn đề giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách thực chất, đúng quy trình trên cơ sở nghiên cứu giới một cách khoa học, ở mọi cấp, mọi giai đoạn thực thi chính sách trên nền tảng cơ sở dữ liệu về giới nhằm bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới; bảo vệ quyền lợi chính đáng mà họ được thụ hưởng, từng bước tiến đến xóa bỏ bất bình đẳng giới, bảo đảm sự công bằng mọi đối tượng, vùng miền đất nước.
Đổi mới quy trình quy hoạch và tạo nguồn cán bộ nữ, tránh tình trạng bị động, thúc thủ, chiếu lệ đối với cán bộ nữ. Theo đó, xem xét, sửa đổi: độ tuổi cử đi đào tạo, độ tuổi bổ nhiệm với cơ chế đặc thù, để đảm bảo cơ hội ngang bằng giữa cán bộ nam và cán bộ nữ và phải coi đây là biện pháp đặc biệt thúc đẩy bình đẳng giới. Đồng thời, tổ chức giám sát, đánh giá và có các chế tài thích hợp thực hiện và phát triển bình đẳng giới. Xây dựng và quy định cơ chế hỗ trợ tài chính phù hợp đối với phụ nữ, nhất là trẻ em gái trong thụ hưởng giáo dục, khám chữa bệnh để bảo đảm họ chuẩn bị làm tốt nhất thiên chức duy trì, phát triển giống nòi, đồng thời gánh vác trách nhiệm chính trị, kinh tế, góp phần bảo đảm sự cân bằng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Các cấp uỷ, chính quyền đổi mới xây dựng, thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ nữ phù hợp với đặc điểm giới thật sự chiến lược, khoa học, nhân văn, bảo đảm tương ứng cơ cấu tỷ lệ nữ; “san bằng” mọi trở ngại ngăn cản phụ nữ thăng tiến. Kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu các cấp.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.
Hội LHPN các cấp đi đầu, trực tiếp xây dựng, bảo vệ quyền lợi cho giới nữ, nhất là quyền tham chính và nâng cao nhận thức về năng lực chính trị cho phụ nữ bắt đầu ngay từ mỗi người dân, mỗi gia đình trong thực hiện bình đẳng giới, phát triển tiến bộ xã hội.
Tổ chức mạng lưới lãnh đạo nữ và nâng cao năng lực của lãnh đạo nữ nhằm giúp phụ nữ học hỏi kỹ năng chính trị và phát triển xã hội. Mở rộng dịch vụ giúp việc gia đình, khuyến khích nam giới chia sẻ công việc này, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy mọi khả năng đóng góp với xã hội.
Các cấp ủy đổi mới quy chế, nhất thiết Hội LHPN các cấp tham gia quyết định công tác cán bộ, nhất là liên quan đến cán bộ nữ nhằm nâng cao chất lượng mỗi quyết định trong giáo dục, chăm lo và bảo vệ quyền tham chính của phụ nữ.
Cuối cùng, nghiên cứu toàn diện và căn cơ các yếu tố liên quan tới phụ nữ làm nền tảng cho những quyết sách và bảo đảm các điều kiện cần và đủ đối với phụ nữ và liên quan tới cán bộ nữ.
Cấp bách nghiên cứu một cách hệ thống và căn cơ các phương diện trực tiếp liên quan tới phụ nữ tham chính về chính trị, kinh tế, pháp luật, tôn giáo, dân trí, văn hóa và xã hội, nhằm đẩy lùi tư tưởng xem phụ nữ là thứ yếu, nữ phải tuân phục nam, cản trở phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị - xã hội ngay từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội.
Đổi mới, kiến tạo hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm và phát triển quyền lợi chính đáng của phụ nữ, nhất là trong ứng cử, bầu cử các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, đẩy lùi mọi phân biệt đối xử, với sự cam kết rằng, mọi phụ nữ đều có quyền và cơ hội tham chính bình đẳng trên thực tế.
***
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 của Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2025, có 60% số cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là phụ nữ. Và, năm 2030, con số này dự kiến tăng lên 75%.
Đó không chỉ là thước đo giải phóng mọi tiềm năng của phụ nữ mà còn xây dựng một đội ngũ cán bộ nữ ngang tầm, góp phần phát triển đất nước và bảo đảm hạnh phúc cho tất cả mọi người.
TS. NHỊ LÊ, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản