Ở đây người
viết bài này chỉ muốn nêu lên sự kiện bắt nguồn của “đường dây” từ “Khám đường
Tây Ninh”, một di tích của tỉnh đang được trùng tu và sẽ hoàn thành trong nay
mai giữa lòng thị xã Tây Ninh sắp lên thành phố.
 |
Phía sau cánh cổng sắt, bức tường cao kia là nơi kẻ địch giam cầm
tra tấn các chiến sĩ cách mạng |
(BTN)
- Có lần đi thăm Côn Đảo, hòn đảo được mệnh danh “địa ngục trần gian”, được nghe
cô hướng dẫn viên giới thiệu về “Đường dây Côn Đảo”, là đường dây liên lạc bí
mật giữa những người tù cách mạng thời kháng chiến, mà lúc ấy người ta gọi là
“chính trị phạm”, với cơ quan đầu não của cách mạng ở miền Nam, tự dưng tôi suy
đoán: Vậy là một đầu đường dây ở Côn Đảo, còn đầu kia nhất định ở Tây Ninh! Bởi
vì gần như suốt 15 năm kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Cục miền Nam đóng căn cứ
ở Tây Ninh, ngoại trừ năm đầu tiên đóng ở rừng Mã Đà trên đất Đồng Nai.
Người hướng
dẫn, tên là Ngô Thị Thanh Vân còn cho biết thêm: “Đường dây Côn Đảo” được thiết
lập từ ngày đồng khởi 20.12.1960 và duy trì liên tục cho đến ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng 30.4.1975. Suốt thời gian đó cũng có đôi lúc liên lạc bị gián
đoạn rồi kết nối lại được ngay. Nguyên nhân do có một “mắt xích” nào đó chuyển
nơi giam giữ, ra tù nếu “mắt xích” ở “bên này”; hay “thuyên chuyển công vụ” nếu
“mắt xích” là người ở “bên kia”. Vì vậy đường dây tuy có lúc gián đoạn vẫn không
hề bị lộ.
Trở về Tây
Ninh, tôi tìm gặp một nhân vật mà tôi tin là có biết đến “Đường dây Côn Đảo”,
bởi lẽ đó là người lãnh đạo Đảng bộ tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn chống Mỹ cứu
nước: ông Nguyễn Văn Hải, thường gọi là chú Bảy Hải, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ trước
ngày giải phóng và Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ sau ngày giải phóng. Thật may
mắn, chú Bảy Hải chính là người được đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương
Cục, giao nhiệm vụ thiết lập “Đường dây Côn Đảo” và chỉ đạo vận hành đầu dây ở
đất liền.
Trong ngôi nhà
chữ đinh bình dị có vườn cây chung quanh, nằm khuất trong một hẻm nhỏ đường
Nguyễn Chí Thanh, phường 3, Thị xã, tôi được nghe chú Bảy Hải và “đồng chí bạn
đời” của chú kể rõ “đầu dây mối nhợ” của “Đường dây Côn Đảo”…
“Trước đồng
khởi, Xứ uỷ Nam bộ, sau là Trung ương Cục miền Nam có điều động một cán bộ là
ông Nguyễn Văn Khuynh (Hai Khuynh, còn có tên là Trương Minh) về Tây Ninh làm
công tác binh vận. Ông Hai Khuynh xuất thân là nhà giáo, rất giỏi ngoại ngữ- cả
tiếng Anh, tiếng Pháp lẫn tiếng Tàu, ông từng có thời làm Bí thư Tỉnh uỷ Sóc
Trăng. Năm 1959 trên đường công tác ở Phước Vinh, Châu Thành, Hai Khuynh bị bọn
dân vệ rượt bắn bị thương và bị bắt đưa về giam ở Khám đường Tây Ninh, ngay phía
sau Toà soạn Báo Tây Ninh ngày nay.
Ở Khám đường
Tây Ninh, Hai Khuynh bị giam chung với ông Ba Thưa tức Dương Văn Thưa- Bí thư
Huyện uỷ Gò Dầu, cũng là người phụ trách giao liên của Tỉnh uỷ. Trong nhà tù ông
Ba Thưa vẫn giữ mối liên lạc với Tỉnh uỷ. Nhờ vậy Tỉnh uỷ biết được và thường
xuyên quan tâm, thăm hỏi, gửi quà cho các đồng chí bị bắt, thông qua thân nhân
của họ được vào thăm nuôi. Tỉnh uỷ động viên anh em giữ vững khí tiết qua những
bức mật thư, hoặc những lời nhắn gửi bằng tiếng lóng, đại thể là: Ông bà nội,
ngoại nhắn thăm, ráng “giữ gìn sức khoẻ”, “dù đói thế nào cũng ráng chịu”, ông
bà sẽ gửi cho bánh trái, chiếu mền… vv…vv…
Một thời gian
sau, ông Hai Khuynh bị đưa về khám Chí Hoà ở Sài Gòn. Trong thời gian này Hai
Khuynh tham gia Đảng uỷ nhà lao cùng với các ông Tám Ký (Nguyễn Xuân Ký, nguyên
Tỉnh uỷ viên Mỹ Tho), Tư Thuật (nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ Gia Định) cùng nhiều
đồng chí khác. Biết mình sắp bị đày ra Côn Đảo, Hai Khuynh bàn với Tám Ký tìm
cách liên lạc với Trung ương Cục để xin ý kiến chỉ đạo hoạt động đấu tranh trong
nhà tù.
Con đường móc
nối vẫn là qua liên lạc thăm nuôi. Lúc này có anh Huỳnh Văn Lanh, nguyên là Đội
trưởng Đội bảo vệ Tỉnh uỷ Tây Ninh thường được gia đình thăm nuôi. Anh em viết
thư bằng tiếng lóng, viết bằng nước cơm trên những mảnh giấy thật mỏng, vo tròn,
nhét vào gấu áo để qua mắt bọn cai ngục. Một lần vợ Huỳnh Văn Lanh vào thăm nuôi
chồng đã chuyển được về tới Tỉnh uỷ một bức mật thư của anh em ở Chí Hoà. Tỉnh
uỷ nhận và hứa báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
Khoảng năm
1961, có một phụ nữ nhờ vợ anh Lanh đưa đến gặp tôi (chú Bảy Hải). Đó là chị Lê
Thị Lan, thường gọi là Út Lan, cán bộ Ban Binh vận miền Đông, chính là vợ của
Hai Khuynh. Chị Lan đưa cho tôi bức thư của Hai Khuynh nhờ chuyển về Trung ương
Cục. Tôi lập tức báo cáo về trên. Đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) rất quan
tâm chuyện này và giao cho tôi tổ chức đường dây liên lạc với anh em tù chính
trị Côn Đảo. Lúc này Hai Khuynh đã bị đày ra Côn Đảo. Đồng chí Mười Cúc chỉ giao
việc này cho tôi và dặn dò tôi phải hết sức bí mật để bảo vệ, duy trì đường dây
liên lạc, đồng thời bảo vệ anh em ngoài đảo không để bị địch phát hiện, đàn áp,
triệt phá đường dây.
Nhận nhiệm vụ
của lãnh đạo Trung ương Cục giao, tôi trực tiếp giao nhiệm vụ đặc biệt này cho
anh Phạm Hà, cán bộ Ban An ninh tỉnh. Trước đó Phạm Hà đã phụ trách đường dây
liên lạc với Ba Thưa và nhiều anh em bị giam ở Khám đường Tây Ninh. Đối với chị
Út Lan, tôi truyền đạt chỉ đạo của trên, giao nhiệm vụ cho chị làm đầu mối giao
liên tại Sài Gòn để nhận thư từ Côn Đảo gửi về.
Mỗi khi lên
Tây Ninh, Út Lan ở nhà người bà con, là cơ sở ở Long Hoa. Cơ sở này là chức sắc
cao cấp trong đạo Cao Đài, một vị nữ Phối sư. Để thiết lập “đầu dây” của mình,
chị Út Lan đưa lên Tây Ninh một người cháu của chị là sinh viên đang theo học ở
Sài Gòn có tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh, đang có nguy cơ
bị lộ, bị bắt lính. Đó là anh Lâm Minh Trung (Năm Trung), sau này là Giám đốc
Công an Tây Ninh, rồi làm Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Công an, cấp bậc Thiếu
tướng.
Tôi đưa Năm
Trung vào làm thư ký cho anh Tô Lâm, Trưởng Ban An ninh tỉnh. Từ đó Năm Trung là
một “mắt xích” trong đường dây, có nhiệm vụ liên lạc với chị Út Lan để chuyển
thư của Trung ương Cục, của Tỉnh uỷ Tây Ninh ra Côn Đảo và nhận tài liệu, thư
từ, báo cáo của anh em từ Côn Đảo gửi về…”.
Về phía đầu
dây ở Côn Đảo, chú Bảy Hải cho biết thêm: Sau khi bị giam ở Khám đường Tây Ninh
và nhà lao Chí Hoà, nhóm Hai Khuynh, Tám Ký bị Mỹ - Diệm đày ra Côn Đảo, anh em
tù chính trị Tây Ninh cũng bị ra đảo khá nhiều. Trong nội bộ kẻ địch, chúng cũng
thường xuyên luân chuyển các cai ngục qua các “trung tâm cải huấn” trong nội
địa, cũng như từ đất liền ra hải đảo. Với việc làm này kẻ địch tận dụng được
“năng lực, kinh nghiệm nghiệp vụ” tra khảo, đàn áp người tù của các cai ngục
nhưng đây cũng chính là kẽ hở để anh em chính trị phạm khai thác, làm công tác
binh vận, có lợi cho cách mạng. Điển hình trong hoạt động này chính là ông Dương
Văn Thưa, đã cảm hoá được giám thị Nguyễn Văn Thượng tại Khám đường Tây Ninh.
Khi các ông
Hai Khuynh, Ba Thưa bị đày ra Côn Đảo, thì giám thị Thượng cũng thuyên chuyển ra
đảo làm giám thị chủ sở chăn nuôi trên núi Chúa. Đây là một trong những sở khổ
sai được tổ chức để khai thác lao động khổ sai của tù nhân, tạo ra của cải vật
chất cho bọn chúa đảo.
Ra đảo, Hai
Khuynh được Nguyễn Văn Bửu, nguyên là cán bộ Ban Binh vận tỉnh Tây Ninh móc nối,
vận động được ra dạy học cho con giám thị Thượng. Tù nhân được làm như vậy là do
bọn chúa đảo có chế độ ưu đãi giám thị từ đất liền ra- giám thị được phép sử
dụng lao động khổ sai để phục dịch gia đình họ. Mỗi giám thị được dùng một, hai
công tù, các giám thị trưởng, chủ sở được sử dụng tới ba, bốn công tù, riêng
chúa đảo thì cả chục.
Một kẽ hở khác
là bọn cai ngục thường dùng tù thường phạm làm trật tự trại giam, còn công tù tư
gia thì chúng thích dùng chính trị phạm, vì chính trị phạm có nhân cách, có văn
hoá, không “xấu tính” như tù thường phạm. Những chính trị phạm gốc nhà giáo như
Hai Khuynh thường được chọn làm “gia sư” cho các gia đình công chức, sĩ quan,
giám thị ở đảo.
Tù chính trị
cũng tận dụng cơ hội đó để tranh thủ làm công tác địch vận, tác động cảm hoá kẻ
gác ngục và cả gia đình họ, để họ bớt hung hăng, trấn áp tù nhân, cũng như lợi
dụng quan hệ của họ để phục vụ đường dây liên lạc về đất liền.
 |
Khuôn viên di tích Khám đường Tây Ninh đang được trùng tu, tôn tạo |
Khi đã làm
thân với gia đình giám thị Thượng, vốn đã được Ba Thưa cảm hoá từ hồi còn ở Khám
đường Tây Ninh, Hai Khuynh nhờ ông ta chuyển một bức thư về cho vợ mình là bà Lê
Thị Lan. Thư được nguỵ trang với nội dung thăm gia đình, chính là bức thư bà Út
Lan nhờ chú Bảy Hải chuyển về Trung ương Cục. Sau đó đến khoảng tháng 11 năm
1963, bản báo cáo đầu tiên được bà Út Lan chuyển qua cho Năm Trung đến Ban An
ninh Tây Ninh, mật danh là C.155, được lãnh đạo C.155 là chú Bảy Hải đánh số
303/VF, ngày 27.11.1963 gửi Trung ương Cục, cho biết “đường dây” đã liên hệ được
với “ông Năm” (giám thị Nguyễn Văn Thượng), thu thập được những tài liệu đáng
tin cậy về tổ chức hành chính, quân sự, bố phòng của địch qua sơ đồ Côn Đảo cũng
như tình hình giam giữ và hoạt động của tù nhân… trong đó nêu rõ toàn đảo có bao
nhiêu tù nhân, bao nhiêu án tử hình, án tù chung thân, bao nhiêu người bị cấm
cố, bao nhiêu lao động khổ sai…
Đặc biệt, báo
cáo nhấn mạnh tinh thần chính trị phạm rất vững vàng, đấu tranh quyết liệt, có
sự lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức Đảng trong nhà tù. Tiếp theo đó là những báo
cáo thường xuyên gửi về Tỉnh uỷ Tây Ninh, Trung ương Cục miền Nam, nêu rất chi
tiết hoạt động đàn áp của kẻ địch, chế độ lao tù hà khắc, tàn bạo của kẻ thù,
hoạt động đấu tranh của tù nhân… những báo cáo này chính là tài liệu rất thuyết
phục để lực lượng cách mạng miền Nam đấu tranh với kẻ thù trên bàn hội đàm Paris
cũng như công bố, lên án kẻ địch trước công luận quốc tế.
Hoạt động của
“Đường dây Côn Đảo” suốt cuộc trường chinh chống Mỹ là những trang sử vẻ vang
của di tích quốc gia đặc biệt Côn Đảo. Ở đây người viết bài này chỉ muốn nêu lên
sự kiện bắt nguồn của “đường dây” từ “Khám đường Tây Ninh”, một di tích của tỉnh
đang được trùng tu và sẽ hoàn thành trong nay mai giữa lòng thị xã Tây Ninh sắp
lên thành phố.
Hy vọng những
thông tin ban đầu này sẽ được cơ quan chức năng quản lý di tích quan tâm tổ chức
khai thác, bổ sung vào lý lịch di tích. Việc làm đầy ý nghĩa này cho đến nay vẫn
chưa muộn, vì một “mắt xích” quan trọng trong đường dây này ở đầu dây Tây Ninh-
Thiếu tướng Lâm Minh Trung hiện nay vẫn còn sống và là nhà làm sử của ngành Công
an.
Từ đầu mối
này, cơ quan quản lý di tích sẽ không khó tìm ra những nhân chứng lịch sử khác
để hoàn chỉnh bản lý lịch đầy đủ cho di tích “Khám đường Tây Ninh” và có động
thái phù hợp để nâng cấp di tích cho đúng với tầm vóc, ý nghĩa của nó.
NGUYỄN TẤN HÙNG