Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
Tham luận của đồng chí Lê Hồng Quang – Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Thường trực Toà án Nhân dân Tối cao tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27.1.
Đồng chí Lê Hồng Quang - Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Thường trực TAND Tối cao tại Đại hội
Kính thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội,
Kính thưa các vị đại biểu khách quý,
Kính thưa Đại hội,
Thay mặt Ban cán sự đảng, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, tôi bày tỏ sự nhất trí cao với Báo cáo chính trị và các văn kiện trình Đại hội.Được phép của Đoàn Chủ tịch, tôi xin trình bày tham luận với chủ đề “Phát huy phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, thực hiện có hiệu quả công tác cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Kính thưa Đại hội!
Qua 90 năm cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và 75 năm xây dựng phát triển, đất nước ta đã đổi thay vượt bậc. Nhìn lại chặng đường đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đó là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, coi dân là gốc, là chủ; dựa vào dân, nương sức dân để phát triển dài lâu. Sau khi lập nước, Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện và ghi nhận rõ Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Đồng thời, Hiến pháp cũng dành một chương riêng quy định về “cơ quan tư pháp” gồm có: Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Với phương châm đó, khi dự Hội nghị cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người. Người căn dặn cán bộ Tư pháp “phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Trải qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tổng kết và xác định: xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, góp phần hiện thực hoá Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế là nội dung quan trọng, là nhiệm vụ chiến lược của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Suốt chặng đường phát triển thời gian qua, chúng ta cũng nhìn thấy rõ sự đổi thay về cơ cấu tổ chức, hoạt động của hệ thống tư pháp nói chung, của Toà án nhân dân nói riêng, cũng như nỗ lực của đội ngũ cán bộ Toà án.
Nhìn lại 15 năm gần đây, các Toà án luôn phải giải quyết khối lượng công việc năm sau cao hơn năm trước từ 8-10%/năm. Ví dụ, năm 2020 Toà án các cấp thụ lý 602.000 vụ việc các loại, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2005 và gấp hơn 2 lần so với năm 2010. Mặc dù số lượng biên chế của các Toà án cơ bản không thay đổi, đặc biệt trong bối cảnh tinh giản 10% biên chế theo Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhưng Toà án các cấp đã rất nỗ lực hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội đề ra; hàng năm giải quyết, xét xử từ 95-98% số vụ việc thụ lý. Có được thành tích đó, bên cạnh những nỗ lực của toàn hệ thống Toà án, còn phải kể đến yếu tố quan trọng đó là kết quả của thực hiện cải cách tư pháp trong hệ thống Toà án.
Trước khi cải cách tư pháp, chúng ta coi việc giúp dân là làm thay cho dân dẫn đến Toà án phải thực hiện nhiều hoạt động tố tụng, còn người dân thì bị động khi đến Toà án. Nhưng với tư duy đổi mới và cải cách tư pháp, trong xét xử hình sự, các phán quyết của Toà án không chỉ căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ, mà còn phụ thuộc vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, các phán quyết ấy không chỉ đưa ra những chế tài trừng trị, răn đe mà còn có tác dụng cảnh tỉnh, giáo dục, phòng ngừa. Đối với việc giải quyết, xét xử các loại tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động, Toà án giờ đây giữ vai trò trọng tài, tạo điều kiện và hướng dẫn, giúp người dân thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng do luật định, theo thủ tục minh bạch để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy, công việc của Toà án giảm đáng kể và hoạt động hiệu quả hơn; các Thẩm phán chuyên tâm hơn trong việc việc giải quyết, xét xử; các nguồn lực của Nhà nước và của Toà án được sử dụng hợp lý hơn. Cũng qua thực hiện cải cách tư pháp, hoạt động xét xử được coi trọng. Tranh tụng tại Toà án không chỉ diễn ra ở tranh tụng về nội dung mà còn được thể hiện cả về hình thức, cách bố trí phiên toà để đảm bảo công bằng, bình đẳng khi tranh tụng. Như vậy, Toà án vẫn giúp đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nhưng không làm thay người dân, mà vẫn tuân thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế, đồng thời đảm bảo được công lý, công bằng xã hội.
Trước đây, để hoàn thành tốt nhiệm vụ giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, các cán bộ Toà án phải điều tra, nắm bắt tình hình, xuống địa bàn để tìm hiểu các mối quan hệ, phải hướng dẫn cho người dân về từng nội dung, từng văn bản. Qua thực hiện cải cách tư pháp, Toà án thể hiện sự gần dân ở việc tạo điều kiện để người dân dễ dàng tìm đến công lý; nắm bắt được các văn bản, trình tự tố tụng và công việc của Toà án để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Toà án đã đẩy mạnh việc đơn giản hóa thủ tục hành chính - tư pháp, mẫu hóa các văn bản tố tụng; công bố bản án và ban hành án lệ để người dân dễ dàng biết được đường lối giải quyết những vụ việc tương tự; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để người dân tiếp cận hoạt động tố tụng từ xa, cho phép người dân nộp đơn khởi kiện và nhận các văn bản tố tụng qua giao thức điện tử… Như vậy, với sự giúp sức của internet và ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, khoảng cách gần dân về địa lý, về thể chất được thay thế bằng việc Toà án phục vụ người dân mà không cần yêu cầu họ phải đến trụ sở Toà án, trong khi vẫn thực hiện được đầy đủ các quyền năng của mình một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Bên cạnh đó, mặc dù Toà án giải quyết các xung đột, tranh chấp trong dân trên nền tảng pháp luật, nhưng không tách rời đời sống xã hội. Các cán bộ Toà án phải xâm nhập thực tiễn, “hiểu dân” hơn để có được thông tin đa chiều; tìm hiểu sự việc từ nhiều góc độ khác nhau, củng cố thêm niềm tin nội tâm và nhận định chính xác về sự thật khách quan vụ việc; đảm bảo việc xét và xử vừa thấu tình, vừa đạt lý. Trong đời sống pháp lý, nếu đơn thuần áp quy định của pháp luật đối với tình tiết vụ việc thì máy tính và trí tuệ nhân tạo hoàn toàn có thể dần thay thế con người. Nhưng để thấu hiểu bản chất của vụ việc, giải quyết xung đột trong những mối quan hệ xã hội vốn đã phức tạp, tinh vi thì máy móc và công nghệ hiện nay chưa thể làm thay con người; nó không đảm bảo được “tình người” khi đưa ra quyết định và không làm cho các bên“tâm phục, khẩu phục”. Do vậy, trong lĩnh vực tư pháp, máy móc và công nghệ chưa thể làm thay con người và điều đó đòi hỏi Thẩm phán luôn phải bám sát thực tiễn, hiểu người dân, hiểu rõ được mối quan hệ mới có thể đưa ra được phán quyết công tâm, có sức thuyết phục.
Cũng chính qua việc tìm hiểu thực tiễn, Thẩm phán học thêm được nhiều tri thức, kinh nghiệm từ nhân dân. Thực tiễn pháp luật không thể điều chỉnh mọi khía cạnh của quan hệ xã hội; đối với khoảng trống pháp luật như vậy, nhiều trường hợp cộng đồng dân cư đã có phương pháp giải quyết, đó là phong tục, tập quán, hương ước. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán có thể áp dụng phong tục, tập quán không trái với quy định của pháp luật để giải quyết vụ việc. Nhiều trường hợp, từ việc “hiểu” rõ dân, “học” từ cách người dân xử lý quan hệ tranh chấp mà Thẩm phán đưa ra những phán quyết điển hình, trở thành án lệ, bổ sung cho những khoảng trống mà pháp luật chưa điều chỉnh.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện thực hóa mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đồng thời ý thức được rằng “công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối”; thời gian qua, các hoạt động của Toà án đã được đổi mới rõ rệt theo hướng phục vụ người dân tốt hơn. Hệ thống pháp luật về tố tụng và tổ chức Toà án đã được hoàn thiện theo hướng tăng cường tranh tụng, đảm bảo độc lập tư pháp, áp dụng thủ tục rút gọn đối với một số vụ việc đơn giản; cơ chế hoà giải, đối thoại các tranh chấp được tăng cường và triển khai hiệu quả; các thủ tục hành chính - tư pháp được đơn giản hóa tạo thuận lợi cho người dân; quy trình xử lý các yêu cầu của người dân được hiệu chỉnh theo cơ chế một cửa, đảm bảo nhanh chóng, hiệu quả; đề cao sự tham gia tích cực, chủ động của người dân trong hoạt động tư pháp và tạo điều kiện để họ thực hiện và thụ hưởng đầy đủ các quyền trong tố tụng; các cơ chế kỹ thuật, pháp lý để tiếp cận công lý của người dân được đa dạng hóa; các phán quyết của Toà án được công khai, đảm bảo tính nghiêm minh về pháp luật và định hướng hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao, cơ sở vật chất được trang bị tốt hơn, công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ được quan tâm, góp phần thúc đẩy nhiệt huyết cống hiến của đội ngũ Thẩm phán và cán bộ Toà án. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp phục vụ nhân dân như Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị đề ra.
Kính thưa Đại hội!
Để có được những thành công trong công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, chúng ta phải kể đến sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương, sự ủng hộ của các cấp ủy đảng và Nhân dân. Qua đó, công tác tư pháp đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; bước đầu khắc phục được những hạn chế, yếu kém đã tồn tại nhiều năm; chất lượng và hiệu quả hoạt động tư pháp được nâng lên; một số mặt công tác có nhiều tiến bộ rõ nét. Hoạt động tư pháp đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và góp phần giữ vững sự ổn định của đất nước, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội; trở thành công cụ quan trọng tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Là cơ sở để nền tư pháp nước nhà phát triển tiệm cận hơn với các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới.
Đóng góp vào những thành công nổi bật nêu trên, bên cạnh vai trò lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp của Đảng là sự nhận thức đúng đắn và việc vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Tư pháp đó là “phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Đây chính là những nhân tố quyết định để nền tư pháp nước ta phát triển đúng hướng, đảm bảo duy trì bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân như Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đặt ra.
Kính thưa Đại hội!
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc vận dụng và phát huy phương châm “lấy dân là gốc” trong hoạt động tư pháp vẫn còn những tồn tại nhất định, như: việc cụ thể hóa quyền làm chủ của Nhân dân trong hoạt động tư pháp tuy có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; vai trò giám sát của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp chưa phát huy được thế mạnh; niềm tin của người dân đối với cơ quan tư pháp còn khiêm tốn; hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về tố tụng tư pháp còn bất cập, chi phí tuân thủ cao gây lãng phí nguồn lực của xã hội. Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp chưa được đổi mới mạnh mẽ, chưa bắt kịp với những đổi mới về kinh tế - xã hội của đất nước; việc phân định một số chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng, chưa khoa học. Nhìn chung, hoạt động của cơ quan tư pháp cần phải tiếp tục cải cách để đáp ứng được mong mỏi và yêu cầu của Đảng, kỳ vọng của Nhân dân, cũng như phục vụ tốt phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là yêu cầu hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, kể cả khách quan và chủ quan; song nguyên nhân trước hết là do việc nhận thức, quán triệt, thực hiện phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” vẫn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất. Do vậy, khi triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp có lúc, có nơi thiếu quyết tâm, còn lúng túng và bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ.
Từ thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp, chúng tôi rút ra bài học kinh nghiệm đó là: (1) phải luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm quan điểm "Nhân dân là gốc", “Nhân dân là trung tâm” của hoạt động tư pháp, quyền tư pháp; (2) mọi chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của Nhân dân; (3) lấy phương châm phục vụ Nhân dân, vì hạnh phúc và lợi ích của Nhân dân làm mục tiêu cải cách; (4) coi việc tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với cơ quan tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp.
Kính thưa đại hội,
Thực tiễn công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước cho thấy bên cạnh những thuận lợi, thời cơ còn có những khó khăn, thách thức đặt ra cho nền tư pháp nước nhà phải giải quyết đó là:
Thứ nhất, nền tư pháp nước ta đang lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới cả về thể chế, tổ chức bộ máy, năng lực, trình độ và điều kiện bảo đảm.
Thứ hai, đang tồn tại mâu thuẫn lớn giữa sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng công việc Toà án phải thực hiện với yêu cầu tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy cơ quan tư pháp; giữa việc thực hiện chế độ, chính sách theo quy định hiện hành với việc đẩy mạnh cải cách tư pháp, thu hút nhân tài, tránh chảy máu chất xám trong hệ thống tư pháp.
Thứ ba, yêu cầu của Đảng, của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp ngày càng cao, buộc cơ quan tư pháp phải không ngừng cố gắng để thật sự là chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; xứng đáng là nơi để Đảng và Nhân dân gửi trọn niềm tin.
Thứ tư, xu hướng gia tăng mạnh mẽ các loại tội phạm, tranh chấp, khiếu kiện nhất là tội phạm, tranh chấp phi truyền thống, các vụ việc có yếu tố nước ngoài, yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đòi hỏi hệ thống tư pháp phải cải cách để thích ứng và đảm bảo giữ vững mục tiêu phát triển chung của đất nước.
Thứ năm, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, internet vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ số đang tạo ra những đột phá trên nhiều lĩnh vực sẽ là cơ hội và thách thức đối với cơ quan tư pháp trong việc tận dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động; tăng cường công khai, minh bạch; hỗ trợ tích cực cho người dân tiếp cận công lý và giám sát hoạt động tư pháp.
Trước những khó khăn, thách thức đặt ra nói trên, cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm thích ứng tốt hơn với yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trong tình hình mới. Đây cũng là xu thế tất yếu, là cơ sở quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền. Cải cách tư pháp là để chúng ta có được nền tư pháp tiên tiến, hiện đại, phục vụ nhân dân, tăng cường niềm tin của giới đầu tư vào hệ thống pháp luật và tư pháp của Việt Nam qua đó thu hút nguồn vốn đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đem lại sự phồn vinh cho đất nước.
Các đại biểu tham dự Đại hội
Kính thưa Đại hội,
Kế thừa những thành quả của việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, cũng như kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị khóa XII, chúng tôi cho rằng: Cần thiết phải xây dựng và ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cải cách tư pháp mới trong giai đoạn 2020-2030, định hướng đến năm 2045 làm cơ sở về chính trị, quyết tâm đổi mới của Đảng trong lĩnh vực tư pháp. Trên tinh thần tiếp tục phát huy phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tại Đại hội này, Ban cán sự đảngToà án nhân dân tối cao đề xuất một số quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp giai đoạn sau năm 2020 như sau:
1. Kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện hiệu quả trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Cải cách tư pháp vì sự phát triển của đất nước. Xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo; là nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, giữ vững, phát huy thành tựu phát triển của đất nước thời gian qua; đẩy nhanh việc hoàn thiện các thiết chế của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Xây dựng nền tư pháp vì Nhân dân phục vụ. Hoạt động tư pháp phải đặt người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ Nhân dân làm tôn chỉ, mục đích hoạt động. Tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động theo hướng đảm bảo trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đúng như bản chất “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” của nền tư pháp nước nhà. Coi đây là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của cải cách tư pháp.
4. Tăng cường niềm tin của người dân vào công lý và nền tư pháp. Hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt động tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện chế định Hội thẩm Nhân dân theo hướng hạn chế tính hình thức, tăng cường tính Nhân dân, dân chủ; nghiên cứu, tiếp thu nhân tố hợp lý của chế định Bồi thẩm đoàn.
5. Phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan dân cử, của công luận và của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đề cao trách nhiệm tự giám sát trong nội bộ của cơ quan tư pháp; coi trọng và tăng cường sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường công khai, minh bạch,thông tin kịp thời cho người dân; tích cực đối thoại, giải trình và lắng nghe Nhân dân để gần dân hơn, hiểu dân nhiều hơn, giúp dân dân được nhiều hơn và học hỏi thêm được nhiều điều từ Nhân dân. Tận dụng những lợi thế của công nghệ, hướng tới xây dựng Toà án thông minh; công khai, minh bạch hoạt động tư pháp; tăng cường khả năng tiếp cận công lý của người dân; giảm bớt thủ tục và chi phí xã hội không cần thiết.
6. Nhận thức đúng đắn, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thành công tư duy chính trị, pháp lý mới về “Toà án nhân dân – Cơ quan thực hiện quyền tư pháp” như ghi nhận tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013. Đề cao vị trí, vai trò của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống chính trị; xác định đây là thiết chế độc lập; đồng thời, có cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo độc lập tư pháp.
7. Kế thừa và phát huy thành tựu, kinh nghiệm cải cách tư pháp đã đạt được; hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp đi vào chiều sâu; tập trung giải quyết những vấn đề, nhiệm vụ có tính chất cốt lõi, nhiệm vụ chưa hoàn thành; tiếp thu những thành tựu khoa học pháp lý mới, tiến bộ của thế giới để kịp thời tháo gỡ những bất cập của hệ thống pháp luật và nền tư pháp hiện nay.
8. Xây dựng cơ chế đánh giá phù hợp để hạn chế sự tác động, áp lực không chính đáng từ những thiết chế, chủ thể trong xã hội đối với hoạt động tư pháp; giảm thiểu những ảnh hưởng đến tính độc lập của cơ quan tư pháp và việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, cũng như sự vô tư, khách quan, liêm chính của hệ thống Toà án nhân dân.
Kính thưa Đại hội,
Ban cán sự Đảng, lãnh đạoToà án nhân dân tối cao tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo, sự quan tâm thường xuyên, sâu sát của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội; sự phối hợp chặt chẽ, cũng như hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, đặc biệt là tin tưởng, ủng hộ của đồng bào cả nước, hệ thống Toà án sẽ tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chủ trương của Đảng, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Kính chúc Đại hội thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!
Đức An
(từ Hà Nội)