Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
Nhiều lần lỗi hẹn với những người bạn làm nghề giữ rừng ở Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát, mãi đến giữa tháng Mười năm nay chúng tôi mới có dịp “đi thuyền trên dòng sông biên giới” thăm Vườn quốc gia, như một chuyến “Về nguồn” trong khuôn khổ đợt hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Báo Tây Ninh 5.10.

Nhiều lần lỗi hẹn với những người bạn làm nghề giữ rừng ở Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát, mãi đến giữa tháng Mười năm nay chúng tôi mới có dịp “đi thuyền trên dòng sông biên giới” thăm Vườn quốc gia, như một chuyến “Về nguồn” trong khuôn khổ đợt hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Báo Tây Ninh 5.10.
|
(BTN) - Nhiều lần lỗi hẹn với những người bạn làm nghề giữ rừng ở Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát, mãi đến giữa tháng Mười năm nay chúng tôi mới có dịp “đi thuyền trên dòng sông biên giới” thăm Vườn quốc gia, như một chuyến “Về nguồn” trong khuôn khổ đợt hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Báo Tây Ninh 5.10. Có thể nói, đối với tất cả các cơ quan truyền thông cách mạng ở miền Nam, đến với Vườn quốc gia này là tìm về nguồn cội của mình, bởi lẽ, nơi đây đang lưu giữ dấu tích một thời tranh đấu vẻ vang của các cơ quan Ban Tuyên huấn Trung ương cục, Thông tấn xã Giải phóng, Đài Phát thanh Giải phóng, Hãng phim Giải phóng, Nhà in Trần Phú v.v…
ThuỶ trình trên phía thưỢng nguỒn
Riêng với dòng sông Vàm Cỏ Đông, đoạn đầu nguồn xuất phát từ đất nước láng giềng khi chảy sang đất Việt Nam thì đi men theo sườn phía Tây của Vườn quốc gia Lò Gò-Xa Mát. Và suốt một đoạn dài khoảng 20km đi qua Vườn quốc gia, dòng sông cũng là đường biên giới. Bờ sông bên kia là đất Campuchia, bên này là đất Việt Nam.
Chúng tôi bước xuống chiếc ghe máy 30 chỗ, phương tiện chở khách đường thuỷ đầu tiên dùng để phục vụ tuyến du lịch sinh thái của Vườn quốc gia ở bến Lò Gò, gần điểm cuối của đoạn sông biên giới đi ngược lên phía thượng lưu để vào sâu trong “vùng lõi”, vùng bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia, nơi hãy còn rừng nguyên sinh với những cây họ dầu đặc trưng của rừng Tây Ninh.
Ghe rời bến lướt trên dòng nước trong xanh. Đang trong mùa lũ, dòng sông như lớn rộng mênh mông. Trên sông không một bóng thuyền bè nào khác, vì ở khúc sông biên giới chảy qua Vườn quốc gia gần như không có hoạt động gì của dân cư. Hai bên bờ sông, bên ta cũng như bên bạn, cây cỏ không có gì khác nhau vì cùng một hệ sinh thái. Cây ven bờ chen chúc nhau dày bịt, nhiều nhất vẫn là những rặng gừa với bộ rễ xum xuê “thò chân xuống nước”, phía xa sau rặng gừa là những lùm tre rừng với những đọt tre non đâm tua tủa xen lẫn những đọt tre già lả ngọn.
Trên mặt nước sông hầu như rất hiếm gặp những giề lục bình, chứ không phải dày đặc lục bình như ở phía hạ lưu. Đơn giản bởi vì ở đoạn sông đầu nguồn này không có nhà máy công nghiệp nào cả. Nhưng chỉ cần đi xuống một đoạn ngắn nữa thôi đến đoạn sông chảy qua các xã Hoà Hiệp (huyện Tân Biên), Phước Vinh (huyện Châu Thành) thì… tình hình khác đi rồi, ở đó đã có những nhà máy mì, nhà máy cao su, tuy không trực tiếp xả thải xuống sông, nhưng đố ai dám bảo đảm nó không xả thải qua những con suối đổ ra sông (?!).
Ngồi trong khoang ghe nhìn lên bờ, thỉnh thoảng chúng tôi lại bắt gặp những cột mốc biên giới bằng bê tông sơn đỏ ở cả hai bên bờ sông, mà sau khi lên bờ, gặp mấy anh lính Biên phòng, hỏi thăm mới biết đó là những cột mốc phụ, loại mốc đôi được cắm ở cả hai bên bờ của “dòng sông chung”. Cột mốc chính cắm ở gần bến Lò Gò cũng là mốc đôi, mang số hiệu cột mốc 134, được xây dựng kiên cố, trông rất bề thế.
Đi trên dòng sông phẳng lặng, thâm nghiêm giữa rừng biên giới, tôi chợt nghĩ, nếu nhạc sĩ Xuân Hồng không phải là dân Tây Ninh, thì ắt là ông đã không viết “Biên giới là một dòng sông, một cánh đồng…”. Bởi lẽ trên đất nước ta, ngoại trừ ở Hà Khẩu, tỉnh Lào Cai và ở Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh cũng có “dòng sông biên giới” trên biên giới Việt – Trung, thì ở miền Trung và miền Nam chỉ có “dòng sông biên giới” Vàm Cỏ Đông ở biên giới Việt Nam - Campuchia.
Ngay cả biên giới ở miền sông nước Tây Nam bộ, cũng chỉ có dòng Mê Kông chảy từ Campuchia vào đất Việt, cắt ngang biên giới chứ không chảy cặp biên giới thành đường biên giới tự nhiên. Có điều ở những “dòng sông biên giới” phía Bắc, cả hai bên bờ đều đã là những khu kinh tế đối ngoại sầm uất, giao thương tấp nập, chứ không còn nét hoang sơ của rừng tự nhiên như ở Tây Ninh.
Tất nhiên phát triển kinh tế biên mậu là điều có lợi cho cả đôi bên hai nước có chung biên giới, nhưng đi liền với sự phát triển đó là cái giá phải trả bởi sự phá vỡ hệ sinh thái của dòng sông biên giới.
Ở Tây Ninh, mặc dù cũng đang phát triển kinh tế biên mậu với hai khu kinh tế ở hai cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và Xa Mát và cả chục cửa khẩu chính trên suốt tuyến biên giới dài tới 240km, nhưng rất may những chốn giao thương tấp nập ấy đều không nằm bên “dòng sông biên giới”. Vì vậy, việc hình thành và phát triển hoạt động du lịch sinh thái ở đây là điều rất lý tưởng, nhưng không thể không đi cùng với sự bảo tồn nghiêm ngặt của Vườn quốc gia.
|
Hạc cổ trắng |
Chuyến thuỷ trình của chúng tôi chỉ dài độ 5km, nhưng do đi ngược dòng giữa mùa nước lũ nên cũng phải mất gần một giờ đồng hồ. Đến bến Suối Vắt, ghe tấp vào bờ, mọi người bước lên đi bộ theo lối mòn xuyên rừng khoảng chừng một cây số thì đến đường tỉnh 791, đường vành đai biên giới chạy xuyên qua khu rừng. Vào trong trạm giữ rừng Suối Vắt, chúng tôi gặp Giám đốc Trung tâm Giáo dục và dịch vụ môi trường rừng - Vườn quốc gia Nguyễn Thanh Tùng cùng với hai cán bộ Biên phòng, Trung tá Đặng Văn Kiểm, đồn trưởng và Thượng tá Phạm Minh Vỹ, chính trị viên đồn Tân Phú, một trong ba đồn biên phòng trong khu vực gần 19.000 ha của Vườn quốc gia.
Qua câu chuyện trao đổi mới biết Trung tá Kiểm, Thượng tá Vỹ từng bám biên giới khá lâu năm ở khu rừng và dòng sông này. Các anh bồi hồi nhắc lại mùa cá linh “lịch sử” năm 1991. Mùa lũ năm ấy cá linh theo dòng nước Vàm Cỏ Đông từ đầu nguồn đổ về nhiều đến nỗi đặc kín cả dòng sông, phá bung cả những chiếc đáy của người dân đặt trên sông để bắt cá. Cá linh nhiều đến mức thương lái hết vốn để mua dù đã “ép giá sát đáy”. Cá linh nhiều đến mức không còn đủ lu khạp để làm mắm, dù người dân đã vét sạch những vựa lu từ các chợ Thạnh Tây, Mỏ Công xuống tới chợ Thị xã, Long Hoa.
Làm mắm không hết, người ta phải dùng cá linh để làm… thức ăn gia súc. Vậy mà không hiểu sao, từ xưa tới nay cũng chỉ có một mùa cá linh “lịch sử” ấy, không hề xảy ra lần thứ hai. Đề cập đến nguy cơ giết chết những dòng sông từ những nhà máy công nghiệp, theo Thượng tá Vỹ thì cho dù lợi lộc đến đâu cũng không nên cho phép xây dựng nhà máy ở ven sông, gần sông, thậm chí ở gần những chi lưu đổ nước ra sông.
Anh cho biết, những ai mới biết đến với dòng sông những năm gần đây, không thể nào biết được sông Vàm Cỏ Đông từng có một loài cá đặc sản gọi là cá cầy, ăn rất ngon. Anh không thể diễn tả nó ngon như thế nào, nên chỉ có thể so sánh cá cầy nấu canh chua ngon hơn cá lóc ruộng, ngon hơn cá bớp biển.
Vậy mà hồi mới kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, những người dân cư ngụ ở các xã đầu nguồn sông đã tận diệt loài cá cầy bằng cách “đánh thuốc nổ”. Cách khai thác huỷ diệt này đã “xoá sổ” giống cá cầy trên sông Vàm Cỏ Đông từ vài chục năm nay! Nghe được nỗi niềm “hoài cổ” của các anh lính Biên phòng, bất giác tôi thầm nghĩ, phải xin phép nhà thơ Hoài Vũ, sửa lại một từ trong câu thơ của ông viết về dòng sông này: “Anh ở đầu sông lo cuối sông”!
Du lỊch sinh thái- công chúa ngỦ trong rỪng
Rời trạm Suối Vắt, chúng tôi xuôi đường vành đai 791 trở về trạm đón khách của Trung tâm Giáo dục và dịch vụ môi trường - Vườn quốc gia, nơi xuất phát lượt đi đường sông. Tại đây chúng tôi được thưởng thức món bánh xèo với đặc sản rau sông, rau rừng. Hẳn là rau sông, rau rừng thứ thiệt, chứ không phải rau sông “khoanh nuôi” như mấy tiệm đặc sản bánh tráng phơi sương ở mấy huyện “miền hạ” cặp dòng sông.
Thật ra, rau sông “khoanh nuôi” cũng là các loại rau rừng mọc tự nhiên dọc bờ sông Vàm Cỏ Đông, nhưng vì nó càng ngày càng có giá nên các hộ cư ngụ ven sông khoanh vùng đoạn bờ sông trước nhà mình, không cho ai hái, rồi “chăm sóc” kỹ lưỡng bằng các loại thuốc tăng trưởng hay phân bón lá cho lá non mọc nhiều, mọc tốt rồi hái bán cho mấy quán đặc sản. Vì vậy, rau sông “miền hạ” đã không còn chất “tự nhiên”, không còn là rau sạch. Chỉ có ở khúc sông đầu nguồn, chảy qua khu “rừng cấm” này mới còn có rau sông, rau rừng thực sự là rau sạch.
|
Phó Giám đốc VQG Lý Văn Trợ (phải) và Giám đốc TTGD-DVMTR Nguyễn Thanh Tùng (trái) khảo sát tuyến đường sông chảy qua Vườn quốc gia |
Vừa cuốn bánh xèo, chúng tôi vừa nghe Giám đốc Trung tâm Nguyễn Thanh Tùng quảng bá tour du lịch sinh thái của đơn vị mình. Anh Tùng cho biết, cũng như tình hình chung của ngành du lịch tỉnh nhà, tiềm năng du lịch sinh thái của Vườn quốc gia hết sức phong phú; quy hoạch du lịch sinh thái cũng đã có từ lâu, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa khai thác được bao nhiêu.
Nói hình tượng một chút thì vẫn là “nàng công chúa ngủ trong rừng” chưa được đánh thức. Nguyên nhân của thực trạng này vẫn là vấn đề muôn thuở “thiếu vốn đầu tư”. Nhưng anh Nguyễn Thanh Tùng cũng thẳng thắn thừa nhận nguyên nhân chủ quan là do “thiếu con người” có đủ khả năng, trình độ chuyên môn, kể cả chuyên môn nghiên cứu khoa học để làm du lịch sinh thái.
Vì lẽ du lịch sinh thái khác hẳn các sản phẩm du lịch khác, nó đòi hỏi phải được tổ chức khai thác với những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Nhất là du lịch sinh thái ở một khu bảo tồn quốc gia càng phải nghiêm ngặt hơn. Đã thế, tuyến du lịch sinh thái ấy lại còn nằm sát biên giới mà vấn đề bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia hẳn là phải đặt lên hàng đầu. Thoả mãn các điều kiện này, cũng chính là “giải quyết mâu thuẫn” giữa bảo tồn, bảo vệ môi trường sinh thái với khai thác du lịch.
Hỏi thăm về những hoạt động du lịch đã được đưa vào khai thác ở Vườn quốc gia, Nguyễn Thanh Tùng cho biết, theo quy hoạch thì có rất nhiều hoạt động phục vụ du lịch, nhưng do điều kiện thực tế, Vườn quốc gia mới mở được một số hoạt động chính như: đi thuyền trên sông Vàm Cỏ Đông; tham quan khu rừng nguyên sinh thường xanh nửa rụng lá có cây họ dầu chiếm ưu thế (đặc trưng rừng thường xanh Đông Nam bộ); đi dạo trong khu rừng Khộp (yếu tố rừng đặc trưng Tây Nguyên); ngắm hoa rừng, cây nắp ấm (cây ăn thịt); xem chim rừng và ngắm bình minh ở trảng Tà Nốt; thăm viếng, thắp hương ở các di tích lịch sử trong Vườn quốc gia; giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại ở khu trung tâm Đa Ha…
Nghe người giữ rừng nói chuyện, tôi thầm nghĩ, thật ra, chưa cần đòi hỏi những dịch vụ gì cao cấp, chỉ cần được thưởng ngoạn theo lịch trình ấy thôi cũng quá đủ cho một lần về với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên mà chiêm nghiệm cuộc sống. Xin chào Lò Gò - Xa Mát, chào sông Vàm Cỏ Đông, chào suối Đa Ha… Hẹn một ngày tái ngộ.
NGUYỄN TẤN HÙNG