Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Sáng ngày 10.11.2014, thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi), ĐBQH Trịnh Ngọc Phương - Tây Ninh góp ý: hiện nay do chậm cải cách thủ tục hành chính về đầu tư, nên còn không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài phải chờ đợi, không ít địa phương mất đi cơ hội chỉ vì thủ tục chấp thuận đầu tư quá lâu.

ĐBQH Trịnh Ngọc Phương phát biểu góp ý dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).
Đại biểu Phương nêu cụ thể: Luật quy định về hồ sơ, trình tự thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của các chủ thể có thẩm quyền (tại các Điều 33, 34, 35), các cơ quan tham mưu giúp việc phải hoàn thành trong thời gian cụ thể để trình lên Quốc hội, Thủ tướng hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nhưng lại không quy định trong thời hạn bao lâu các chủ thể có thẩm quyền phải trả lời là chấp thuận hay không. Chính vì không có quy định thời hạn trả lời nên dễ dẫn đến tình trạng nhiều dự án bị ngâm do chưa có chấp thuận chủ trương đầu tư.
Từ sự phân tích trên, ông Phương kiến nghị: Đối với các dự án cần có chủ trương chấp thuận đầu tư quy định tại các Điều 30, 31, 32 của dự thảo, cần quy định rõ thời hạn chấp thuận chủ trương đầu tư dự án của các chủ thể có thẩm quyền. Các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội được chấp thuận chủ trương qua chương trình kỳ họp.
Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm thông qua, xem xét, chấp thuận thuộc thẩm quyền của mình trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ kiến nghị; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, thông qua chấp thuận chủ trương là 10 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ kiến nghị.
Đối với hợp đồng BCC, tại Mục 1, Chương IV dự thảo Luật quy định về thủ tục đầu tư tại Việt Nam có quy định về hình thức chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư là thành lập tổ chức kinh tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC và hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP. Trong nội dung này tập trung vấn đề hợp tác kinh doanh BCC.
Theo Khoản 11 Điều 13 của dự thảo giải thích: “hợp đồng hợp tác kinh doanh, gọi tắt là BCC, là hợp đồng được ký giữa nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân”.
Như vậy, các nhà đầu tư chọn hình thức đầu tư là hợp đồng BCC thì sẽ không hình thành pháp nhân, không phải thành lập tổ chức kinh tế theo Luật Doanh nghiệp. Các chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài vẫn được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (theo quy định tại Điều 28, Điểm e, Khoản 2, Điều 38 và Điều 50 của dự thảo).
Mặc dù không thành lập pháp nhân, nhưng về mặt đầu tư hợp đồng BCC được thực hiện như một tổ chức kinh tế được thành lập. Vấn đề đặt ra là, với quy định như thế, sẽ quản lý nhà nước như thế nào đối với hợp đồng BCC?
Theo quy định tại Điều 38 và 50 của dự thảo thì các bên tham gia hợp đồng BCC là nhà đầu tư nước ngoài thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam. Văn phòng điều hành thực hiện hợp đồng BCC của nhà đầu tư nước ngoài được cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nơi dự kiến đặt văn phòng cấp giấy chứng nhận đăng ký.
Hoạt động văn phòng điều hành theo quy định tại Khoản 2, Điều 50 của dự thảo, tại văn phòng điều hành có con dấu, được mở tài khoản, sử dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi quyền và nghĩa vụ quy định tại hợp đồng BCC v.v...
Để thực hiện tốt quản lý của Nhà nước đối với quá trình thực hiện hợp đồng BCC và hạn chế mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra, ĐBQH Trịnh Ngọc Phương kiến nghị: Văn phòng điều hành phải có trưởng văn phòng, có thẩm quyền như người đại diện theo pháp luật; quyền và nghĩa vụ của văn phòng điều hành được thực hiện như tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Nội dung kiến nghị này, ông Phương đề nghị bổ sung vào quy định tại Điều 50 của dự thảo Luật.
Duy - Quang
(Tổng hợp)