![Cảnh Trà - “Đôi dép vẹt mòn thời xuôi ngược”](http://image.baotayninh.vn/news/2011/20110930/fckimage/20041473769404_canhtra1.jpg) |
Nhà thơ Cảnh Trà |
Tập thơ đầy đặn, dày đến 200 trang với 77 bài
thơ, 6 bài văn xuôi nhà thơ viết cho bè bạn và 7 bài bè bạn viết cho nhà thơ. 77
bài thơ, vài bài có đề ngày sáng tác, còn lại không thấy ghi năm tháng gì cả,
thế nhưng ta vẫn nhận thấy có những bài nhà thơ làm từ những năm 70 của thế kỷ
trước, tập thơ còn “tuyển lại” những bài đã đăng trong các tập thơ trước đây của
anh, ghi đậm dấu ấn những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước. Rồi những khó khăn sau chiến tranh, những vùng đất hằn in dấu chân của nhà
thơ xứ Nghệ, xuôi ngược mãi cho đến khi dừng chân ở mảnh đất “phên giậu” của
biên giới Tổ quốc phía Tây Nam.
Thơ Cảnh Trà giản dị nhưng ý tứ thâm trầm sâu
sắc, pha chút hóm hỉnh của người dân miền Trung, dạn dày trong gian khó và trui
rèn trong bom đạn chiến tranh: “Những cành bom cắt cụt lại đâm chồi/ Bàng
đứng dậy như thể một con người/ Không nghiêng ngửa giữa những ngày ác liệt/ Gốc
đợi vẫn chờ em về đón gió/ Lá chao cành lại quạt mát cho em” (Cây bàng Hồ
Xá). Đó là khung cảnh: “Những bến phà không có phà/ Những ụ pháo không có
pháo/ Chỗ giấu xe mà xe không giấu/ Nơi không có ta mà có ta/ Bom ném tan rồi
lại cứ hiện ra” (Những bức ảnh người ở lại), với một không gian rất
đặc biệt của thời chiến: “Vĩnh Linh nuôi gà dưới hầm/ Lót ổ ở trong hốc đất/
Đẻ xong từng trứng cất riêng/ Phòng lúc bom rung khỏi vỡ” (Gà ở Vĩnh Linh).
Bài thơ Đưa dâu qua cầu Bến Hải đoạt giải bài thơ hay nhất của Báo Văn
nghệ Giải phóng, kỷ niệm số ra 100 với những câu thơ đầy hỉ hả, lạc quan: “Đám
cưới hôm nay cũng tự nhiên như là hoa, là lá/ Như là chị lấy chồng, như
là tôi lấy vợ/ Mà hay chưa bỡ ngỡ như chiêm bao/ Tôi nhìn sông nghe sóng vỗ rì
rào/ Ai hát đó tưởng như lời tôi hát/ Ngắm mây bay tôi thấy trời bát ngát/ Chân
người đi rộn rịp quá người ơi!”.
Cái chất miền Trung của những ông đồ Nghệ, có lẽ
in đậm trong các bài thơ Giọng nói trong nhà, Về chơi nhà bà ngoại, Những đọi
cơm rang… Cảnh Trà tự trào với chính mình: “Cha mẹ đẻ ra/ Tôi chẳng làm
được việc gì ra trò/ Ngẩn ngẩn, ngơ ngơ/ Còn bày đặt làm thơ/ Nên gần suốt cuộc
đời/ lam lũ lắm…”. Bài thơ Gái goá phơi rơm lại đằm đẵm, kín đáo một
nỗi niềm thiết tha, cháy bỏng và đầy chất nhân văn: “…Đụng nhau cũng ở ổ rơm/
Khi thành chồng vợ nằm giường rơm không/ Tiếc em là gái goá chồng/ Nhớ chồng gái
goá ra đồng phơi rơm!”. Nhưng có lẽ, những bài thơ Cảnh Trà làm trong suốt
hành trình “Nam tiến” của mình, chứa đựng nhiều tâm trạng của một con người
ngược xuôi, xuôi ngược nhất: “Suối lại kể: Em rời xứ Nghệ/ Vào Tây Nguyên lúc
còn thiếu hơi người”, hay như “Thành phố Sài Gòn/ Xưa là nơi xa lạ/ Như
của ai đâu không phải của mình/ Giờ chốn ấy cháu con đều đến ở/ Từ đại lộ này
lộc biếc lại hồi sinh!” (Em Tân). Sự “hồi sinh” ấy, là sự khởi đầu,
nhận về mình một quê hương thứ hai trong một tâm thế mới, bắt đầu là sự cảm nhận
về một vùng đất: “Nơi đây vùng lộng gió/ Ở ngã ba Tà Lài/ Mùa này sen đã nở/
Cánh hồng như môi ai?” (Sen ở ngã ba Tà Lài) và chắc chắn là vùng đất
của mỡ màng, no đủ: “Mùa lúa đẹp no nê/ nồng nàn/ đa tình/ Hương lúa thơm như
môi em/ đê mê/ lim dim/ nóng rực/ Mùa lúa chín/ Mùa của tuần trăng mật!” (Mùa
lúa chín). Để từ đó nhà thơ nhận những đồng cảm, gửi những vi vu cuộc đời
vào vi vu của gió mới: “Những buổi trưa vào vụ/ Trên đất miền Đông/ Nắng
chang chang/ Tán cây cầy như là nhà của gió/ Tha hồ vi vu!” (Dưới tán cây
cầy).
![Cảnh Trà - “Đôi dép vẹt mòn thời xuôi ngược”](http://image.baotayninh.vn/news/2011/20110930/fckimage/49431473769405_canhtra2.jpg) |
Bìa tập thơ Phơi rơm của Cảnh Trà |
Thơ Cảnh Trà trên quê mới gắn liền với thiên
nhiên, cây trái, mùa vụ và những sinh sôi nẩy nở của đất, của người và cả muôn
thú. Gần phân nửa tập thơ, anh dành cho nơi chốn anh đã chọn bằng những câu chữ
mộc mạc, đồng quê. Sức sống phồn thực cuồn cuộn nhưng âm thầm qua những hình ảnh
hết sức dân dã: “Chuyện đàn bà, đàn ông/ Hồn nhiên như gió đồng.../ Mấy mệ
sồn sồn/ Dăm cô gái trẻ/…/ Chỉ còn đôi mắt/ Long lanh/ Mắc cỡ” (Dưới tán
cây). Còn đây nữa, một không gian hoang sơ cho một tình tự: “…Thỏ nâu
liến láu/ Sóc lửa như ánh sáng/ Nhảy qua lưng cặp tình nhân đang hổn hển trên
vạt cỏ nhàu/” và cái kết lại chứa nhiều triết lý của nhân sinh: “Đứng xa
nhìn bụi rậm na ná hình con người/ Tới gần ngắm bụi rậm có cái gì cũng giống con
người/ Vào trong bụi rậm/ tối om/ chứa bao điều chưa biết!” (Bụi rậm).
Với lá giang- loại lá có nhiều ở rừng miền Đông Nam bộ, dùng nấu canh chua, xào
thịt bò, cũng được thi vị hoá trong thơ Cảnh Trà, như những bài ca dao, giao
duyên, tình tứ: “Cây giang bứng tự rừng về/ Bây giờ lá đã xum xuê đầy giàn/
Chàng trai bên xóm thường sang/ Hỏi xin vài nắm lá giang… má cười/ Xin lá hay là
xin người?/ Hay là mượn lá đưa người giùm cho?/…Con gái má đứng trong buồng/
Người ta thương lá ai thương đến mình” (Lá giang).
Thi ảnh trong thơ của Cảnh Trà không lung linh
màu sắc, cũng không là những thi từ trác tuyệt hay diễm lệ, phải gia công gọt
đẽo. Thơ Cảnh Trà bình dị như chính cuộc đời anh, đó là lối thơ thô mộc, mang
phong cách dân gian đồng quê: “Ăn trái chùm đuông/ Nhả hạt chùm đuông/ Con
trống mớm mồi con mái/ Mắt chấp chới…” (Mùa chùm đuông chín). Song
những thế sự cuộc đời cũng làm anh trăn trở, bởi “Cô gái nhà bên về làm dâu
Đài Loan/ Người nói lên hương, kẻ nói đời tàn/ Làn mây mỏng tấm lụa điều phơ
phất/ Đất đồng làng xao xác gió đông sang!” (Cõi lạnh), nhà thơ cũng
cảm nhận qua từng cái bắt tay: “Ngày mới/ mong/ không phải chịu những cái bắt
tay/ khô/ và/ lơi!/ lỏng/ và/ lạnh”, cũng như “cười thầm” từng tiếng vỗ tay
gượng gạo, vô vị của nghi thức xã giao hình thức “Xin giới thiệu/ Rộp…
rộp/Tiếng vỗ tay thưa dần/ nhỏ dần/ nhạt dần/ nhàm chán!” (Tiếng vỗ tay).
Cái tâm, cái tình của nhà thơ thì rộng mở, trùm lấp, sẵn sàng chia sẻ và cho đi,
nhưng thực tế có khi lại lắm nỗi lòng đau: “Con người/ ai đó/ vô tâm/ vô
tình/ quá lắm/ Đeo ơi!” (Con Đeo).
Tôi không có cái tham vọng bình thơ của Cảnh
Trà, vì đấy là công việc của những nhà lý luận, phê bình. Mà có lẽ, khi bài viết
này đến anh, hoặc anh đọc thấy, nếu khoẻ, anh sẽ: “Tôi tới nhà rủ Nguyễn Đức
Thiện/ Ra quán cháo lòng của bà Năm Bún đầu hẻm/ Kêu hai tô/ lít đế/ lai rai…”
(Vào đền thiêng). Và anh sẽ cười khề khà nói: “Tiếng miền Trung/ Ai
hiểu răng thì hiểu…” (Anh và chú). Vâng. Ai hiểu răng thì hiểu!
TRẦN HOÀNG VY